Một số quy định mới về hợp đồng

12/12/2016

Hợp đồng luôn là một công cụ quan trọng, được sử dụng rộng rãi nhằm phục vụ nhu cầu và lợi ích khác nhau của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Liên quan đến quy định về giai đoạn tiền hợp đồng và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 đã có những thay đổi phù hợp để tạo thuận lợi tối đa cho các bên tham gia giao dịch.

Mở rộng phạm vi đề nghị giao kết hợp đồng
Tiền hợp đồng được hiểu là giai đoạn mà các bên chủ thể tiến hành đàm phán, thỏa thuận để đi đến việc ký kết hợp đồng bao gồm việc đưa ra đề nghị giao kết và việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Theo BLDS 2005, đề nghị giao kết hợp đồng chỉ được coi là ràng buộc trách nhiệm đối với bên đưa ra đề nghị nếu đề nghị này được gửi tới “bên đã được xác định cụ thể”, hiệu lực của đề nghị và chấp nhận đề nghị còn phụ thuộc vào thời hạn được xác định trong đề nghị. Do đó làm hạn chế trường hợp đề nghị giao kết được gửi đến nhiều chủ thể (không xác định cụ thể) nói chung.
Để khắc phục hạn chế này, Điều 386 BLDS 2015 đã có thay đổi đáng kể theo hướng mở rộng phạm vi lời đề nghị “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi chung là bên được đề nghị)”. Về thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng, Điều 394 cũng sửa đổi: “Khi bên đề nghị không nêu rõ thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực nếu được thực hiện trong một thời hạn hợp lý”.
Về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, Điều 394 BLDS 2015 đã khắc phục hạn chế của Điều 397 BLDS 2005 khi bổ sung thêm trường hợp bên đề nghị không ấn định thời gian trả lời đề nghị. Điều 396 BLDS 2015 đã sửa đổi quy định trong trường hợp bên được đề nghị giao kết hợp đồng chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi đồng thời cũng dự liệu trường hợp bên được đề nghị đã chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng nhưng sau đó có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Bên cạnh đó, điều luật này cũng đã ghi nhận thêm với những nội dung giao kết gắn với nhân thân bên được đề nghị việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng không có giá trị.
Quy định toàn diện về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
Một trong những nội dung có ý nghĩa quan trọng để hợp đồng có thể được xác định là một căn cứ pháp lý phát sinh nghĩa vụ là nội dung liên quan đến các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Theo BLDS 2015, có 4 điều kiện về hiệu lực của hợp đồng.
Điều kiện về chủ thể giao kết hợp đồng được quy định tại Điều 117 BLDS 2015 “Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập”. Việc sử dụng thuật ngữ “chủ thể” thay cho thuật ngữ “người tham gia giao dịch” như ở BLDS 2005 cho thấy được sự toàn diện và cách hiểu thống nhất về những đối tượng có thể tham gia xác lập giao dịch, tránh được cách hiểu phiến diện chỉ là cá nhân.
Điều kiện về tính tự nguyện của chủ thể khi giao kết hợp đồng được quy định “chủ thể tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện”. Điều này thể hiện một phần nguyên tắc “tự do hợp đồng” trong lý luận về hợp đồng truyền thống, được hiểu là ý chí bên trong của mỗi chủ thể và sự thể hiện ý chí đó ra bên ngoài có sự thống nhất với nhau. Khi vi phạm điều kiện về tính tự nguyện, hợp đồng có khả năng bị tuyên bố vô hiệu.
Mục đích và nội dung của hợp đồng cũng là một trong những yêu cầu cần phải đáp ứng khi xem xét tính có hiệu lực của một hợp đồng. Theo nguyên tắc chung, “việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Từ “và” ở đây được sử dụng thể hiện tính chặt chẽ trong quy định pháp luật về nội dung này mà những chủ thể tham gia xác lập hợp đồng phải đảm bảo.
Khác với ba điều kiện trên, điều kiện về hình thức không phải là điều kiện có hiệu lực đối với mọi hợp đồng: “Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định”. Việc sửa đổi thuật ngữ “pháp luật” thành “luật” mang lại một ý nghĩa to lớn khi quy định hình thức hợp đồng trong các văn bản dưới luật không có giá trị áp dụng, tạo thuận lợi cho các chủ thể giao kết hợp đồng khi không phải tra cứu quá nhiều văn bản để rà soát những quy định pháp luật về điều cấm.
Kim Quy
Các tin đã đưa ngày: