Liên kết website

SỰ CẦN THIẾT VÀ NHỮNG QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

01/01/0001

I. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG LUẬT PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) luôn giữ vị trí quan trọng trong đời sống xã hội. Trong công cuộc đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, công tác này càng có vai trò quan trọng về nhiều mặt. Chính vì vậy, sau khi Đảng ta đề ra chủ trương đổi mới đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ngày càng được quan tâm và được coi là nhiệm vụ quan trọng góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân.

 

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật”. Thực hiện chủ trương trên của Đảng, các quy định pháp luật về PBGDPL đang từng bước được xây dựng và hoàn thiện.

1. Công tác xây dựng thể chế về phổ biến, giáo dục pháp luật thời gian qua

a) Từ trước năm 1998: Thời gian này, văn bản quy phạm pháp luật tạo cơ sở pháp lý trực tiếp cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật vẫn còn rất ít, chỉ có Chỉ thị số 315/CT ngày 07/12/1982 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, Nghị quyết liên tịch số 04 ngày 16/11/1985 giữa Bộ Tư pháp và Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh về việc tăng cường phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật trong thanh niên. Trong thời gian này, Chính phủ đã ban hành 02 Nghị định quy định về chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư pháp trong đó, giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong phạm vi cả nước, đó là Nghị định số 143-HĐBT ngày 22/11/1981 và Nghị định số 38-CP ngày 04/6/1993 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, do thiếu các cơ sở pháp lý cụ thể mà trong thời gian này công tác phổ biến, giáo dục pháp luật chưa thực sự được quan tâm, đầu tư thỏa đáng. Việc PBGDPL chủ yếu do các cơ quan, tổ chức tự triển khai theo yêu cầu nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị, còn mang tính tự phát, phong trào mà chưa có được sự chủ động phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong công tác này.

b) Giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2002:

Ngày 07/01/1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg về việc tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay và Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 1998 đến năm 2002 và thành lập Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Hai văn bản quy phạm pháp luật này đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng, tạo điều kiện cho địa phương, các cấp, các ngành triển khai công tác PBGDPL một cách mạnh mẽ và có hiệu quả hơn.

Sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 02 và Quyết định số 03, nhận thức của các cấp, các ngành đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật bước đầu được nâng cao; cơ chế cho hoạt động phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành và địa phương được xác lập và củng cố. Trong giai đoạn này, công tác xây dựng thể chế cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được các cấp, các ngành ở trung ương và địa phương quan tâm thực hiện. Ngày 25/11/1998, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1067/QĐ-TTg phê duyệt Dự án xây dựng và quản lý Tủ sách pháp luật ở xã, phường, thị trấn. Thực hiện Quyết định 1067/QĐ-TTg, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Chỉ thị số 01/1999/CT-BTP ngày 28/01/1999 về việc triển khai Dự án xây dựng và quản lý Tủ sách pháp luật ở xã phường, thị trấn; Thông tư số 05/TTLT-TC-TP ngày 28/01/1999 của liên ngành Tài chính, Tư pháp hướng dẫn thực hiện Dự án xây dựng và quản lý Tủ sách pháp luật ở xã, phường, thị trấn; Chương trình phối hợp số 253/BTP-TSPL ngày 02/3/2001 giữa Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa – Thông tin, Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng và Tổng Công ty bưu chính viễn thông triển khai Quyết định số 1067/QĐ-TTg ngày 25/11/1998 của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng Tủ sách pháp luật xã, phường, thị trấn.

Cơ sở pháp lý về phổ biến, giáo dục pháp luật cho các đối tượng, địa bàn đặc thù đã được xây dựng để đáp ứng yêu cầu công tác này trong thời kỳ mới. Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa - Thông tin, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Uỷ ban Dân tộc và Hội Nông dân Việt Nam đã ký kết Nghị quyết liên tịch số 01/1999/NQLT-TP-VHTT-NNPTNT-DTMN-ND ngày 07/9/1999 về việc phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở nông thôn, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người. Bộ Tư pháp và Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã có Chương trình phối hợp về phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý cho nông dân và phụ nữ.

c) Giai đoạn từ năm 2003 đến nay: Đây là giai đoạn tăng cường xây dựng thể chế trực tiếp về phổ biến, giáo dục pháp luật. Sau khi hoàn thành việc thực hiện Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 17/01/2003, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2003 đến năm 2007. Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 01/2003/TT-BTP ngày 14 tháng 3 năm 2003 hướng dẫn thực hiện Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg.

Nghị định số 62/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp và hiện nay là Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 ra đời tiếp tục khẳng định chức năng giúp Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong phạm vi cả nước của Bộ Tư pháp. Với vị trí, vai trò ngày càng quan trọng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, ngày 09/12/2003, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Chỉ thị khẳng định phổ biến, giáo dục pháp luật là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục của các cơ quan Đảng, chính quyền, Nhà nước và cả hệ thống chính trị; coi công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg ngày 16/12/2004 phê duyệt Chương trình hành động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 đến năm 2010 (Chương trình 212) và Quyết định số 28/2006/QĐ-TTg ngày 28/01/2006 phê duyệt 4 Đề án chi tiết thuộc Chương trình 212. Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 63/2005/TT-BTC ngày 05/8/2005 hướng dẫn việc quản lý và sử dụng kinh phí bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật thể hiện sự quan tâm, tạo điều kiện của Nhà nước về cơ sở vật chất cho công tác PBGDPL. Ngày 07/12/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 61/2007/NQ-CP về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (gọi tắt là Nghị quyết số 61/2007/NQ-CP). Mới đây, ngày 12/3/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm 2012.

2. Sự cần thiết xây dựng Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật

2.1. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về phổ biến, giáo dục pháp luật còn bất cập, chưa thống nhất

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về PBGDPL còn tản mạn, chưa đồng bộ, chưa có văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao như luật hay nghị quyết của Quốc hội hoặc pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về vấn đề này nên việc triển khai PBGDPL gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là trong việc xác định và phân công trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương, cơ chế phối hợp và chịu trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị cũng như trong việc huy động nguồn lực tạo điều kiện cho công tác PBGDPL được tiến hành một cách đồng bộ, rộng khắp, có hiệu quả.

2.2. Từ thực tiễn công tác PBGDPL những năm qua có thể đánh giá: Từ khi có Chỉ thị số 32-CT/TW, nghị quyết của Chính phủ và các quyết định của Thủ tướng Chính phủ về phổ biến, giáo dục pháp luật, công tác này được các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các ngành, địa phương quan tâm đầu tư có trọng tâm, trọng điểm hơn trước; sự phối hợp của các cấp, các ngành được tăng cường. Công tác PBGDPL đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng; nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân được nâng cao một bước. Công tác PBGDPL ngày càng đi vào thực chất gắn với nhu cầu thiết thực của người dân, góp phần tích cực vào việc giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội và tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đáng khích lệ nêu trên, thực tiễn triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật còn bộc lộ những khó khăn, hạn chế, cụ thể là:

a) Nhận thức của cấp uỷ Đảng, chính quyền, một số bộ, ngành, địa phương và nhận thức chung của xã hội về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật chưa thực sự đầy đủ và chưa tương xứng với vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác này. Vì vậy, sự đầu tư cho công tác PBGDPL còn chưa được chú ý đúng mức về cả nhân lực, vật lực, thời gian và phương pháp…

b) Trong điều kiện pháp luật được ban hành ngày càng nhiều, với nội dung đa dạng, phức tạp, điều chỉnh nhiều loại quan hệ của đời sống xã hội phục vụ tiến trình đổi mới đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu bức thiết của tình hình mới. Việc phổ biến, giáo dục pháp luật ở nhiều nơi vẫn còn mang tính phong trào, chưa đi sâu vào những nội dung pháp luật mà người dân cần. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật mặc dù đã được áp dụng khá đa dạng, phong phú, song nhìn chung hiệu quả còn chưa cao, chưa theo kịp tình hình thực tiễn, nhất là ở cấp cơ sở, trong khi đó sự định hướng của Nhà nước về vấn đề này còn chưa thật sự rõ ràng, hiệu quả.

Mặt khác, phổ biến, giáo dục pháp luật không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị. Nhu cầu về phổ biến, giáo dục pháp luật chủ yếu xuất phát từ cơ sở, nhưng hiện nay khả năng đáp ứng nhu cầu này từ phía cơ quan, tổ chức của nhà nước chưa cao, trong khi đó chưa phát huy nhiều sự quan tâm đầu tư từ phía các tổ chức và cá nhân trong xã hội.

c) Đội ngũ cán bộ bán chuyên trách làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật, hòa giải viên…) ở nhiều nơi còn thiếu về số lượng, trình độ chuyên môn còn hạn chế và chưa đồng đều, đặc biệt là ở cơ sở. Công tác bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật, cung cấp tài liệu cho lực lượng này chưa được thường xuyên; cơ chế quản lý, sử dụng chưa rõ ràng, vì thế hiệu quả hoạt động của đội ngũ này là chưa cao.

d) Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, hội nhập kinh tế quốc tế, việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho các doanh nghiệp; tổ chức, cá nhân nước ngoài sinh sống tại Việt Nam; tổ chức, cá nhân Việt Nam sinh sống ở nước ngoài; việc phổ biến, tuyên truyền về pháp luật quốc tế và pháp luật của các nước là một nhu cầu rất lớn và có tính thời sự cao nhưng thời gian qua hoạt động này chưa thực hiện được nhiều.

đ) Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức xã hội trong phổ biến, giáo dục pháp luật còn nhiều bất cập, đôi khi dẫn đến sự chồng chéo hoặc ngược lại tồn tại những “khoảng trống” trong phổ biến giáo dục pháp luật nhưng chưa có biện pháp hiệu quả để khắc phục.

e) Kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc dành cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhìn chung còn rất hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác này, nhất là ở địa phương, cơ sở, bộ, ngành và những địa bàn kinh tế, xã hội khó khăn. Do chưa có cơ sở pháp lý rõ ràng và đủ mạnh nên bộ, ngành, địa phương nào quan tâm đến công tác phổ biến, giáo dục pháp luật thì dự toán, cấp kinh phí phù hợp cho công tác này và ngược lại, dẫn đến sự không đồng đều trong mặt bằng PBGDPL ở các bộ, ngành, địa phương.

2.3. Nghiên cứu kinh nghiệm về tiếp cận thông tin, PBGDPL của một số nước trên thế giới như: CHLB Đức, Pháp, Australia, Singapore, Mỹ… cho thấy mỗi nước có cách thức khác nhau trong việc đưa pháp luật đến với nhân dân, trong đó có nước đã xây dựng văn bản về PBGDPL làm cơ sở pháp lý cho việc triển khai công tác này hiệu quả, thiết thực.

Từ những phân tích trên đây, có thể thấy rằng, việc kiến nghị với Chính phủ, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, trình Quốc hội đưa vào Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh 2008 – 2012 Dự án Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật hiện nay là rất cần thiết, góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên, nhằm mục đích và đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau:

Thứ nhất, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất cho công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực phổ biến, giáo dục pháp luật.

Thứ hai, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và mọi công dân về vị trí, vai trò của pháp luật và công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong đời sống xã hội, từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ, nhân dân trong thi hành và chấp hành pháp luật.

Thứ ba, thể hiện sự tôn trọng và quyết tâm thực hiện các cam kết quốc tế mà Nhà nước ta đã đưa ra khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) trong việc công khai, minh bạch các chủ trương, chính sách của Nhà nước thông qua hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giải thích pháp luật, để mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp đều có quyền và được tạo điều kiện thuận lợi để tiếp cận thông tin về chính sách và pháp luật.

Thứ tư, tạo cơ chế đồng bộ, thống nhất và tổng thể để xây dựng nguồn nhân lực cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.

Thứ năm, tạo cơ sở pháp lý trong việc huy động các cơ quan, tổ chức và địa phương tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật; thúc đẩy, khuyến khích và thu hút sự quan tâm của nhà nước và toàn xã hội theo hướng xã hội hóa công tác này; tranh thủ các nguồn hỗ trợ, tài trợ của các tổ chức và cá nhân nước ngoài đối với công tác PBGDPL.

Việc xây dựng và ban hành Luật PBGDPL cũng phù hợp với mục tiêu của Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 theo Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị: “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch…đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội…”, “phát triển hệ thống thông tin và phổ biến, giáo dục pháp luật” và là một trong những bước đi cụ thể nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng về hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực này. Trong Báo cáo Sơ kết 3 năm thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, Ban Bí thư Trung ương Đảng cũng đã nhận định một trong những nguyên nhân của những hạn chế trong công tác phổ biến, giáo dục hiện nay là “thể chế cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật còn bất cập. Phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt động liên quan đến tất cả các ngành, các địa phương và toàn bộ đời sống xã hội, song chưa được điều chỉnh bằng một văn bản có giá trị pháp lý cao như Luật, Nghị quyết của Quốc hội nên còn gặp nhiều vướng mắc trong quá trình triển khai và phối hợp thực hiện”. Tại Thông báo Kết luận số 74 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân cũng đã nêu rõ “Đảng đoàn Quốc hội tiếp tục lãnh đạo, đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ và đồng bộ , tạo điều kiện để mọi người dân sống và làm việc theo pháp luật;…nghiên cứu, ban hành đạo luật riêng về phổ biến, giáo dục pháp luật, làm cơ sở pháp lý thống nhất, điều chỉnh toàn diện hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật”. Nghị quyết số 61/2007/NQ-CP của Chính phủ giao nhiệm vụ cho Bộ Tư pháp: “Nghiên cứu xây dựng Luật về phổ biến, giáo dục pháp luật trình Chính phủ để Chính phủ trình Quốc hội trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII (2007-2011)”.

Trong khuôn khổ Dự án VIE/02/015 “Hỗ trợ thực hiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010”, nhằm cung cấp những thông tin cần thiết để xây dựng luận cứ cho việc soạn thảo Luật về tiếp cận thông tin và Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, một cuộc nghiên cứu và khảo sát đánh giá thực trạng tiếp cận thông tin pháp luật ở cơ sở với hình thức khảo sát trực tiếp và khảo sát qua phiếu do Bộ Tư pháp phối hợp với Công ty Nghiên cứu và Tư vấn chuyển giao công nghệ và đầu tư (CONCETTI) được triển khai từ tháng 12/2007 đến tháng 6/2008 tại 9 tỉnh, thành phố là: Hà Nội, Hà Tĩnh, Nam Định, Yên Bái, Đắc Lắk, Bình Dương, Cần Thơ, Tây Ninh và TP Hồ Chí Minh. Đối tượng khảo sát là: Thành viên Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, cán bộ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở tỉnh, thành phố; cán bộ liên quan đến hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật ở các bộ, ngành, đoàn thể ở Trung ương và người dân ở cơ sở. Kết quả là trong số 14 nhóm biện pháp được cán bộ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở khuyến nghị có biện pháp xây dựng, thông qua Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật (4,29 điểm/5 điểm). Cán bộ liên quan đến hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật ở các bộ, ngành, đoàn thể ở Trung ương cũng đã thống nhất với quan điểm của cán bộ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở về sự cần thiết xây dựng và thông qua Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật (4,04 điểm/5 điểm).

II. NHỮNG QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

Dự án Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật thể hiện những quan điểm chỉ đạo sau đây:

1. Thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật theo tinh thần và nội dung của các Nghị quyết của Bộ Chính trị: Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020; Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân; thực hiện cải cách hành chính, phân cấp cụ thể để địa phương chủ động đưa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật hướng về cơ sở; đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp luật của nhân dân;

2. Phổ biến, giáo dục pháp luật là nhiệm vụ của Nhà nước, đồng thời cũng là trách nhiệm chung của toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, thể hiện bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; từng bước xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, khuyến khích, hướng dẫn, huy động sự tham gia, đóng góp của xã hội vào công tác này;

3. Điều chỉnh toàn diện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, quy định cụ thể về nguyên tắc phổ biến, giáo dục pháp luật; người được phổ biến, giáo dục pháp luật; tổ chức và người thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật; hình thành các chuẩn mực, quy tắc nghề nghiệp trong công tác này; huy động nguồn lực bảo đảm hoạt động và tăng cường công tác quản lý nhà nước nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật;

4. Thống nhất quản lý nhà nước về lĩnh vực phổ biến, giáo dục pháp luật vào một hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương là ngành Tư pháp, với cơ quan trực tiếp thực hiện là đơn vị làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở trung ương và địa phương. Ngành Tư pháp vừa có nhiệm vụ quản lý Nhà nước thống nhất trong phạm vi cả nước về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, vừa là Cơ quan thường trực của Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ. Tăng cường sự chủ động và cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các bộ, ngành, đoàn thể trong công tác PBGDPL. Phân cấp mạnh mẽ hoạt động PBGDPL cho địa phương với phương châm hướng công tác PBGDPL về cơ sở.

5. Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, kế thừa những quy định của pháp luật hiện hành về phổ biến, giáo dục pháp luật; tham khảo, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm phổ biến, giáo dục pháp luật của các nước trên thế giới.

Nguyễn Duy Lãm – Vụ trưởng Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp
Các tin đã đưa ngày: