Liên kết website

Quản lý nhà nước về Phổ biến, giáo dục pháp luật thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả

21/02/2017

Ts. Đỗ Xuân Lân Vụ trưởng, Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật

1. Thực trạng quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật
Quản lý dưới góc độ chính trị, là hành chính, cai trị; dưới góc độ xã hội, là điều hành, điều khiển, chỉ huy. Ở góc độ chung nhất, là sự điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá trình, căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng cho hệ thống hay quá trình ấy vận động theo đúng ý muốn của người quản lý nhằm đạt được mục đích đã đặt ra từ trước. Quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ chức lãnh đạo, kiểm soát các nguồn lực và hoạt động của hệ thống xã hội nhằm đạt được mục đích của hệ thống với hiệu lực và hiệu quả cao một cách bền vững trong điều kiện môi trường luôn biến động[1]. Bản chất của quản lý gắn với những mục tiêu đầy thách thức; hướng tới tăng năng suất lao động, sự cam kết, hứng khởi trong thực thi qua kỹ thuật tổ chức lao động, khích lệ và tạo điều kiện cho sáng tạo và phối hợp... kết hợp với các sáng kiến làm giảm chi phí, giảm sự mệt mỏi và rệu rã.
Quản lý nhà nước là sự tác động của Nhà nước lên các quan hệ xã hội để bảo đảm cho các quan hệ xã hội phát triển theo đúng những mục tiêu đã định. Quản lý nhà nước có ba nội dung chính sau đây: xây dựng các thể chế; hướng dẫn, tổ chức thực hiện; thanh tra, kiểm tra[2]. Theo Luật PBGDPL, nội dung quản lý nhà nước về PBGDPL bao gồm: i) Xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch; ii) Chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện công tác PBGDPL; iii) Bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ PBGDPL; iv) Xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật; v) Thống kê, tổng kết về PBGDPL; vi) Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm trong PBGDPL và hợp tác quốc tế về PBGDPL (Điều 6). Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về PBGDPL, Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về PBGDPL; chủ trì xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành chương trình, kế hoạch dài hạn, trung hạn về PBGDPL; chủ trì xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật. Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước về PBGDPL. Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về PBGDPL tại địa phương (Điều 7).
Qua sơ kết 03 năm triển khai thi hành Luật PBGDPL cho thấy công tác quản lý nhà nước về PBGDPL đã đạt được những kết quả chủ yếu sau đây:
Một là, nhận thức về vị trí, vai trò và ý nghĩa của công tác PBGDPL trong xã hội, trong xây dựng, thi hành và bảo vệ pháp luật có nhiều chuyển biến tích cực; các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể đã nhận thức đầy đủ hơn, xác định rõ đây là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị. Vì thế, đã tích cực lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai và bảo đảm thực hiện, góp phần nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò của Hiến pháp và pháp luật trong quản lý đất nước và kiến tạo sự phát triển xã hội, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Qua theo dõi của Bộ Tư pháp, sau khi Luật PBGDPL được ban hành hầu hết Bộ, ngành, đoàn thể, địa phương trong cả nước đều tổ chức quán triệt, phổ biến về các nội dung cơ bản của Luật. Đặc biệt, thực hiện trách nhiệm được Luật giao, mỗi khi Luật, Pháp lệnh mới được ban hành, hầu hết Bộ, ngành, đoàn thể, địa phương đều tích cực tuyên truyền, phổ biến cho cán bộ và nhân dân phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao, bảo đảm để đội ngũ cán bộ được giao thi hành pháp luật đều nắm bắt được những điểm mới, sửa đổi, bổ sung, thay thế trong các văn bản để thi hành đầy đủ và áp dụng thống nhất.
Hai là, thể chế, chính sách về PBGDPL cơ bản được hoàn thiện, được điều chỉnh ở tầm văn bản luật, với các chế định, quy phạm pháp luật rất khái quát nhưng rất rõ ràng về nội dung chính sách[3]. Cùng với các văn bản của Đảng, các Chương trình, Đề án, Kế hoạch về PBGDPL của Chính phủ[4] và hàng ngàn văn bản hướng dẫn, triển khai thực hiện của Bộ, ngành, đoàn thể và chính quyền địa phương, các văn bản đó đã tạo lập cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng điều chỉnh toàn diện các quan hệ xã hội phát sinh trong PBGDPL; đặt nền tảng cho việc tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức, xây dựng đội ngũ, nâng cao hiệu quả hoạt động PBGDPL. Các văn bản này đã đánh dấu bước chuyển về chất, từ tư duy thực hiện các chương trình Đề án sang tư duy chính trị - pháp lý gắn với trách nhiệm, quyền, nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể theo Luật. Đặc biệt, Luật PBGDPL đã thể hiện tư duy mới khi tiếp cận về PBGDPL - tư duy tiếp cận dựa trên quyền - Quyền được thông tin về pháp luật của công dân và trách nhiệm bảo đảm thực hiện quyền từ phía Nhà nước. Việc triển khai công tác PBGDPL được xác định là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, là trách nhiệm pháp lý của các Bộ, ngành, đoàn thể, địa phương, cơ quan, tổ chức và cá nhân và cũng là nhiệm vụ, trách nhiệm của toàn dân - trách nhiệm tích cực học tập, tìm hiểu Hiến pháp và pháp luật; tuân thủ và chấp hành Hiến pháp và pháp luật của toàn dân.
Ba là, nguồn nhân lực thực hiện PBGDPL được củng cố, kiện toàn, chất lượng được nâng lên, cả về thiết chế quản lý, thiết chế triển khai thực hiện, thiết chế phối hợp và cơ chế vận hành của nó. Theo thống kê của Bộ Tư pháp, tất cả Bộ, ngành, đoàn thể, cơ quan tư pháp địa phương đều đã bố trí 01 phòng chuyên môn hoặc giao cho công chức chuyên trách làm đầu mối tham mưu thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về PBGDPL gắn với lĩnh vực, địa bàn quản lý. Hội đồng phối hợp PBGDPL được củng cố, kiện toàn, hiệu quả hoạt động được nâng lên ở cả 03 cấp (trung ương, tỉnh và huyện), nhất là trong định hướng, tư vấn nội dung, hình thức PBGDPL và lồng ghép các nguồn lực; nhiều Bộ ngành, chính quyền cấp xã tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng phối hợp PBGDPL mặc dù Luật PBGDPL không quy định. Đặc biệt, đội ngũ Báo cáo viên, Tuyên truyền viên pháp luật được củng cố, kiện toàn và tham gia tích cực vào hoạt động PBGDPL. Đến 31/12/2015, cả nước có 24.187 Báo cáo viên (cấp trung ương 831 người; cấp tỉnh 6.543 người; cấp huyện 16.813 người); 151.394 Tuyên truyền viên pháp luật cấp xã. Công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng PBGDPL và cung cấp thông tin, tài liệu PBGDPL cho đội ngũ này được quan tâm hơn. Năm 2015, đã có 90.811 Báo cáo viên, Tuyên truyền viên pháp luật được bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ (chiếm 51,8%) và 46.638.537 tài liệu PBGDPL được phát miễn phí, trong đó có nhiều tài liệu là Đề cương tuyên truyền, phổ biến pháp luật phục vụ hoạt động của đội ngũ Báo cáo viên, Tuyên truyền viên pháp luật. Ngoài ra, còn phải kể đến hàng chục nghìn lượt các luật sư, luật gia, các chuyên gia, những người có kiến thức hiểu biết pháp luật tham gia công tác PBGDPL tại các Bộ, ngành, đoàn thể, địa phương tích cực truyền tải, đưa pháp luật đến với người dân.
Bốn là, Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật được xây dựng, từng bước hoàn thiện và đi vào hoạt động, cùng với các cơ sở dữ liệu pháp luật khác đã và đang phục vụ đắc lực cho nhu cầu cung cấp thông tin, tìm hiểu pháp luật của người dân, doanh nghiệp như: Cơ sở dữ liệu văn bản pháp luật trung ương (có 32.307 văn bản), Công báo Chính phủ; cơ sở dữ liệu văn bản và Công báo điện tử của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Hệ cơ sở dữ liệu văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao; Kiểm toán nhà nước; các Bộ, ngành, đoàn thể, địa phương, các cơ sở nghiên cứu, đào tạo pháp luật đăng tải trên Cổng/Trang thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức và các Trang thông tin thư viên pháp luật với 252.000 văn bản, Trang tin Luatvietnam với trên 80 ngàn văn bản. Đó là chưa kể đến hệ cơ sở thông tin pháp luật được đăng tải trên các trang mạng xã hội, trang Facebook, Youtuber, các phương tiện thông tin truyền thông đại chúng tạo lên sự đa dạng, phong phú về chủng loại các thông tin pháp luật để người dân, doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận, khai thác và sử dụng...
Năm là, hoạt động PBGDPL được đổi mới cả về nội dung, hình thức. Hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật sau khi ban hành đều được đăng tải cộng khai trên hệ cơ sở dữ liệu, cổng thông tin, trang tin điện tử để mọi người, doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận, khai thác, sử dụng. Đề cương tuyên truyền, phổ biến, giới thiệu các Luật, Pháp lệnh, nhất là những điểm mới, được sửa đổi, bổ sung thay thế được biên soạn kịp thời, chất lượng được nâng lên, phục vụ trực tiếp cho công tác tuyên truyền miệng. Các phương tiện thông tin, truyền thông đại chúng, nhất là mạng lưới tại cơ sở tăng cường chuyên trang, chuyên mục, đưa tin bài phản ánh về tình hình thực thi pháp luật; công tác giáo dục pháp luật trong nhà trường được quan tâm đổi mới, cả về nội dung, cách thức triển khai và phù hợp hơn với tâm sinh lý lứa tuổi; gắn với giáo dục hình thành nhân cách con người phát triển toàn diện. Công tác PBGDPL cho nhóm đối tượng đặc thù, giáo dục chuyên biệt, nhất là cho người dân vùng sâu, vùng xa qua các hoạt động tư vấn, trợ giúp pháp lý lưu động được tăng cường hơn. Chỉ riêng năm 2015, cả nước đã thực hiện được 1.597.892 cuộc phổ biến, tuyên truyền pháp luật trực tiếp cho trên 67.487.433 lượt người tham dự; đã có 15585 cuộc thi tìm hiểu pháp luật được tổ chức thu hút 8.847.805 lượt người tham gia; 1.094.417 lần phát sóng trên đài phát thanh, truyền hình cơ sở được thực hiện; trên 1.117.945 lượt tin bài về pháp luật được đăng tải trên các phương tiện truyền thông đại chúng, đó là chưa kể gần 5 triệu lượt người tham gia Cuộc thi viết tìm hiểu Hiến pháp và nhiều Cuộc thi khác…Điều đáng mừng là nhiều hình thức PBGDPL mới được triển khai thực hiện mang lại nhiều hiệu quả tích cực như Ngày hội pháp luật; ngày hội pháp luật an toàn giao thông quốc gia; các hoạt động hưởng ứng Ngày Pháp luật; Các cuộc thi trực tuyến tìm hiểu kiến thức pháp luật thu hút hàng trăm nghìn lượt người tham gia…Trong đó đáng kể là hoạt động tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ trực tuyến cho đội ngũ cán bộ, công chức trong phạm vi toàn ngành trong quá trình triển khai các luật mới.
Sáu là, công tác thống kê, báo cáo, thanh tra, kiểm tra, khen thưởng, xử lý vi phạm pháp luật trong thực hiện pháp luật về PBGDPL được quan tâm; công tác hợp tác quốc tế về PBGDPL đã và đang được khởi động và đạt được kết quả bước đầu. Các điều kiện bảo đảm cho công tác PBGDPL, nhất là kinh phí được đầu tư theo hướng tăng định mức, gắn với các hoạt động chi thường xuyên, với triển khai nhiệm vụ chuyên môn của cơ quan, đơn vị và nhiệm vụ chính trị của địa phương. Mỗi năm, trung bình ngân sách trung ương đầu tư hàng chục tỷ đồng để thực hiện các Chương trình, Đề án, Kế hoạch về PBGDPL gắn với đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động; với các hoạt động triển khai thi hành Luật, pháp lệnh mới và góp ý, đối thoại chính sách pháp luật. Các cấp ủy đảng, đoàn thể, chính quyền địa phương trong cả nước cũng đầu tư hàng tỷ đồng cho công tác này, nhờ vậy, chất lượng, hiệu quả công tác PBGDPL đã có chuyển biến tích cực. Điều đáng mừng là công tác huy động các nguồn lực xã hội đã và đang được triển khai, bước đầu mang lại hiệu ứng tích cực, nhất là qua triển khai một số hoạt động PBGDPL tại các tổ chức, doanh nghiệp, gắn với hoạt động của các tổ chức đoàn thể xã hội và với các cuộc thi tìm hiểu pháp luật cụ thể.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý nhà nước về PBGDPL còn một số tồn tại, hạn chế: Hiện vẫn chưa có Bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác PBGDPL. Nội dung, hình thức, phương pháp PBGDPL chậm đổi mới so với thực tiễn, nhất là trước sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, thậm chí có lúc chưa sát với nhu cầu và yêu cầu định hướng dư luận xã hội; phản ứng chính sách đôi lúc chưa linh hoạt. Nguồn nhân lực thực hiện PBGDPL còn hạn chế, cả về kỹ năng, nghiệp vụ và tính chuyên nghiệp. Hoạt động tập huấn, bồi dưỡng mặc dù được tổ chức thường xuyên hơn nhưng chưa đa dạng và sát thực với nhu cầu. Hiệu quả PBGDPL chưa cao, thiếu trọng tâm, trọng điểm; chưa khuyến khích, huy động được mọi nguồn lực xã hội tham gia. Việc triển khai thi hành Luật PBGDPL, các chương trình, đề án còn chậm, chưa tạo chuyển biến căn bản trong ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật. Một số Bộ, ngành, địa phương còn lúng túng trong tổ chức thực hiện; thiếu liên kết và chưa sát nhiệm vụ chính trị; chưa gắn kết với công tác xây dựng, thi hành pháp luật; chưa phát hiện kịp thời và đề xuất xử lý điểm nghẽn, vướng mắc, bất cập từ thực tiễn. Hoạt động của Hội đồng phối hợp PBGDPL các cấp còn hình thức, chưa hiệu quả; chưa ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong PBGDPL. Hoạt động phối hợp với cơ quan, phương tiện truyền thông chưa thường xuyên. Đánh giá về hạn chế, Kết luận số 01-KL/TW, ngày 04/4/2016 của Bộ Chính trị khẳng định: “Công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật chưa có giải pháp đột phá, hiệu quả chưa cao”. Báo cáo công tác nhiệm kỳ 2011-2016 của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 22/3/2016, tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa XIII nhấn mạnh: “Tuyên truyền giáo dục pháp luật và chuẩn bị các điều kiện thực thi hiệu quả chưa cao”. Văn kiện Đại hội XII nhấn mạnh: “Công tác thông tin, truyền thông về chính sách, pháp luật, quản lý, điều hành và trách nhiệm giải trình của các cấp chính quyền còn nhiều hạn chế…”.
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật
Trước yêu cầu phát triển của thực tiễn đất nước, Kết luận số 01-KL/TW, ngày 04/4/2016 của Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ: “Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương pháp phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật”. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong bài phát biểu tại Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Tư pháp cũng nhấn mạnh: "Phải nâng cao hơn nữa hiệu quả tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, coi đây là một bộ phận quan trọng của công tác giáo dục chính trị tư tưởng, là nhiệm vụ thường xuyên của các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị, với mục tiêu cuối cùng là hỗ trợ và tạo điều kiện để mọi cá nhân, tổ chức có ý thức chấp hành đúng pháp luật”. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng yêu cầu: “Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên”. Đây là những yêu cầu đòi hỏi phải tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về PBGDPL. Muốn vậy, thời gian tới cần tập trung vào các giải pháp lớn sau đây:
Thứ nhất, rà soát, nghiên cứu, tham mưu tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách, Chương trình, Kế hoạch về PBGDPL, cả trung hạn và dài hạn để kịp thời thể chế hóa, tổ chức triển khai thi hành các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng được đề ra tại Đại hội XII và các Luật, Pháp lệnh mới được ban hành. Quá trình hoàn thiện thể chế, chính sách cần khắc phục kịp thời những tồn tại, hạn chế, điểm nghẽn cản trở sự phát triển của công tác PBGDPL qua 03 năm triển khai thi hành Luật PBGDPL; dự báo đầy đủ nhu cầu và đề ra giải pháp đổi mới nội dung, hình thức PBGDPL để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Cần sớm nghiên cứu, trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành văn bản để định hướng các chủ trương, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp để tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng để công tác này thực sự trở thành nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, là khâu đầu tiên của hoạt động thi hành pháp luật nhưng cũng là khâu đầu vào của quá trình hoàn thiện thể chế, chính sách. Việc ban hành văn bản đó cần dựa trên cơ sở tổng kết đầy đủ, toàn diện kết quả thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003; Kết luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011 của Ban Bí thư các nhiệm kỳ trước có tính đến nhu cầu PBGDPL và yêu cầu của thực tiễn, cả trước mắt và lâu dài, đặt trong mối quan hệ với công tác hoàn thiện thể chế, chính sách gắn với tổ chức thi hành. Sớm nghiên cứu, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình PBGDPL của Chính phủ giai đoạn 2017-2021 để xác định rõ mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp nhằm tăng cường PBGDPL tại các địa bàn trọng điểm, cho đối tượng và trên một số lĩnh vực đặc thù mà Nhà nước và xã hội phải quan tâm, ưu tiên đầu tư nguồn lực như bảo vệ môi trường; an toàn vệ sinh thực phẩm; vệ sinh, an toàn lao động; về bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; về phòng chống tham nhũng, lãng phí; chính sách an sinh xã hội; công tác đấu tranh phòng ngừa và chống các hành vi vi phạm pháp luật; tai tệ nạn xã hội; về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Ưu tiên PBGDPL cho đồng bào dân tộc thiểu số; thanh thiếu niên; người khuyết tật; người lao động; nạn nhân của tội phạm mua bán người, bạo lực gia đình, bạo lực trẻ em; người mới ra tù tái hòa nhập cộng đồng; người bị áp dụng biện pháp tước đoạt hoặc hạn chế quyền tự do; ngư dân...
Thứ hai, tiếp tục triển khai thi hành nghiêm chỉnh Luật PBGDPL, các Chương trình, Đề án, Kế hoạch về PBGDPL, cả dài hạn, trung hạn và hằng năm. Việc triển khai các hoạt động PBGDPL cần có trọng tâm, trọng điểm, sát với nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, với những vấn đề dư luận xã hội quan tâm hoặc cần định hướng dư luận xã hội; bảo đảm kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa thực hiện trách nhiệm pháp lý được giao trong Luật, phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phối hợp giữa các ngành, các cấp; phát huy đầy đủ vai trò tư vấn, tham mưu, điều phối của Hội đồng phối hợp PBGDPL. Nghiên cứu, xây dựng, tổng kết các mô hình, cách làm hay, hiệu quả trong PBGDPL để kịp thời nhân rộng như các mô hình hưởng ứng Ngày Pháp luật; mô hình Ngày hội pháp luật; Ngày hội an toàn giao thông; doanh nhân với pháp luật; quán café với pháp luật; tiết học, tuần học pháp luật, ngày pháp luật hàng tháng; các cuộc thi tìm hiểu pháp luật trực tuyến; hình thức sân khấu hóa qua lồng ghép các lễ hội…
Thứ ba, tiếp tục đổi mới công tác biên soạn tài liệu, gắn với nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ PBGDPL. Nhà nước cung cấp các thông tin pháp luật chính thức do mình tạo lập trong công tác xây dựng, thi hành và bảo vệ pháp luật (công khai các văn bản quy phạm pháp luật; hồ sơ, tài liệu liên quan đến dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; biên soạn đề cương tuyên truyền, tài liệu tập huấn nghiệp vụ để cung cấp nội dung chính sách pháp luật mới, sửa đổi, bổ sung, thay thế, các hành vi bị nghiêm cấm và chế tài xử lý). Các tổ chức đoàn thể xã hội biên soạn các tài liệu tuyên truyền phù hợp với đặc thù của thành viên, hội viên của tổ chức mình (quyền, nghĩa vụ, chế độ, chính sách); các cơ quan thông tin, truyền thông đại chúng lựa chọn đưa các nội dung mà dư luận xã hội quan tâm hoặc cần định hướng dư luận (sự kiện, bình luận); kết nối giải đáp vướng mắc pháp luật với xuất bản các ấn phẩm tuyên truyền, phổ biến để khai thác, sử dụng chung, tránh trùng lắp về nội dung, nguồn lực. Chuẩn hóa tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ bao gồm: Kỹ năng làm việc với các nhóm đối tượng, lĩnh vực, địa bàn đặc thù; các kỹ năng mềm liên quan đến công tác PBGDPL; tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ máy cái; gắn kết bồi dưỡng nghiệp vụ với tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nảy sinh từ thực tiễn;
Thứ tư, đầu tư nguồn lực bảo đảm cho công tác PBGDPL, cả về nhân lực và tài chính; tiếp tục thu hút, huy động các nguồn lực xã hội tham gia PBGDPL theo chủ trương xã hội hóa gắn với khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Ưu tiên nguồn lực để tháo gỡ những điểm nghẽn, những địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, nhất là các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách và thuộc diện ngân sách trung ương hỗ trợ gắn với triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin; nghiên cứu áp dụng hình thức hợp tác công tư trong PBGDPL theo hướng nhà nước đặt hàng, đấu thầu các sản phẩm tuyên truyền, phổ biến pháp luật để cấp phát miễn phí, phục vụ nhu cầu nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho người dân (mua bản quyền các tác phẩm tuyên truyền như: Chương trình Tòa tuyên án; Chương trình cầm tay chỉ luật; các chương trình, phóng sự phản ánh đời sống pháp luật trên các phương tiện thông tin truyền thông đại chúng; các tiểu phẩm thi tìm hiểu pháp luật); tổ chức thi sáng tác tiểu phẩm pháp luật để lựa chọn các tiểu phẩm hay xuất bản thành băng đĩa tuyên truyền, nhân rộng; mua bản quyền các phần mềm thi tìm hiểu pháp luật để sử dụng rộng rãi. Ký kết các chương trình phối hợp với Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã hội Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam để xây dựng các chuyên trang, chuyên mục PBGDPL trên sóng phát thanh, truyền hình, mạng kỹ thuật số.
Thứ năm, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về PBGDPL; tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện trách nhiệm được giao theo Luật; đổi mới chế độ thống kê, báo cáo để khai thác, kịp thời chia sẻ thông tin phục vụ yêu cầu quản lý, chỉ đạo điều hành. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế để tăng cường giao lưu, học hỏi kinh nghiệm các nước tiên tiến, theo kịp xu thế phát triển của các nước. Tăng cường các hoạt động trao đổi đoàn vào, đoàn ra, hội thảo, tọa đàm trao đổi kinh nghiệm giữa Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế; quan tâm triển khai công tác PBGDPL tại địa bàn biên giới cho công dân Việt Nam ra nước ngoài và công dân nước ngoài cư trú tại Việt Nam.
 

[1] Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Quản lý học, Nxb. Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, 2013, tr.38;
[2] Tô Tử Hạ, Từ điển Hành chính, Nxb. Lao động – xã hội, Hà Nội, 2003, tr.202;
[3] Luật PBGDPL, Nghị định số 28/2013/NĐ-CP ngày 04/4/2013 của Chính phủ Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật PBGDPL; Nghị định số 52/2015/NĐ-CP ngày 28/5/2015 Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật; Quyết định số 27/2013/QĐ-TTg ngày 19/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ Quy định về thành phần và nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng phối hợp PBGDPL; Thông tư liên tịch số 14/2014/TTLT-BTP-BTC ngày 27/01/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác PBGDPL và chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở; Thông tư số 21/2013/TT-BTP ngày 18/12/2013 (được thay thế bởi Thông tư số 10/2016/TT-BTP ngày 22/7/2016 về Báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật); Thông tư số 12/2013/TT-BTP ngày 07/8/2013 quy định quy trình ra thông cáo báo chí về văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành, đó là chưa kể hàng ngàn Kế hoạch PBGDPL được ban hành hằng năm.
[4] Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09-12-2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân; Kết luận số 04-KL/TW ngày 19-4-2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) về kết quả thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09-12-2003 của Ban Bí thư Trung ương; Quyết định số 409/QĐ-TTg ngày 09/4/2012; Quyết định số 1133/QĐ-TTg ngày 15/7/2013 của Thủ tướng Chính phủ.
Các tin đã đưa ngày: