Nghị định này quy định chính sách tinh giản biên chế trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị sau: Các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội từ Trung ương đến cấp xã; các đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội; các hội được giao biên chế và ngân sách nhà nước hỗ trợ kinh phí để trả lương; công ty TNHH một thành viên do Nhà nước hoặc do tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội làm chủ sở hữu được chuyển đổi từ công ty nhà nước, công ty thuộc các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, nay tiếp tục được cấp có thẩm quyền phê duyệt thực hiện sắp xếp lại theo phương án cổ phần hóa, giao, bán, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, phá sản hoặc chuyển thành công ty TNHH hai thành viên trở lên hoặc chuyển thành đơn vị sự nghiệp công lập; Công ty cổ phần có vốn góp của Nhà nước nay được cấp có thẩm quyền bán hết phần vốn nhà nước; Nông, lâm trường quốc doanh sắp xếp lại theo quy định của pháp luật.
Nghị định này áp dụng với 06 nhóm đối tượng: Cán bộ, công chức từ Trung ương đến cấp xã; viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập; người làm việc theo chế độ hợp đồng lao động không xác định thời hạn quy định tại Nghị định số 68/2000/NĐ-CP ngày 17/11/2000 của Chính phủ về thực hiện chế độ hợp đồng một số loại công việc trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp và theo các quy định khác của pháp luật; Chủ tịch công ty, thành viên Hội đồng thành viên, Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc, Giám đốc, Phó Giám đốc, Kế toán trưởng, kiểm soát viên trong các công ty TNHH một thành viên do Nhà nước hoặc do tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội làm chủ sở hữu (không bao gồm Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc, Kế toán trưởng làm việc theo chế độ hợp đồng lao động); cán bộ, công chức được cơ quan có thẩm quyền cử làm người đại diện theo ủy quyền đối với phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước; người làm việc trong biên chế được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao tại các hội.
Việc tinh giản biên chế phải thực hiện theo nguyên tắc: Được tiến hành trên cơ sở rà soát, sắp xếp lại tổ chức và thực hiện đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức, lao động hợp đồng không xác định thời hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; tập trung dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch; bảo đảm chi trả chế độ, chính sách tinh giản biên chế kịp thời, đầy đủ và đúng theo quy định của pháp luật; người đứng đầu phải chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện tinh giản biên chế trong cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao quản lý.
Nghị định quy định từ ngày 10/01/2015, cán bộ, công chức, viên chức dôi dư do cơ cấu lại theo vị trí việc làm, nhưng không thể bố trí, sắp xếp được việc làm khác; viên chức trong 02 năm liền kề thời điểm xét tinh giảm biên chế có 01 năm được phân loại đánh giá vào mức hoàn thành nhiệm vụ và 01 năm không hoàn thành nhiệm vụ nhưng không thể bố trí việc làm khác phù hợp..., nếu đủ 50 - 53 tuổi đối với nam hoặc 45 - 48 tuổi đối với nữ, có thời gian đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) đủ 20 năm, trong đó có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên sẽ được trợ cấp 03 tháng tiền lương cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi. Ngoài chế độ hưu trí theo quy định hiện hành, cán bộ, công chức, viên chức trên còn được trợ cấp 05 tháng tiền lương cho 20 năm đầu công tác có đóng đủ BHXH; từ năm thứ 21 trở đi, cứ mỗi năm công tác có đóng BHXH được trợ cấp ½ tháng tiền lương; đặc biệt, sẽ không bị trừ tỷ lệ lương hưu do nghỉ việc trước tuổi. Đối với đối tượng tinh giản biên chế dưới 53 tuổi (hoặc 48 tuổi đối với nữ), không đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí như trên hoặc dưới 58 tuổi với nam và 53 tuổi với nữ, có thời gian đóng BHXH dưới 20 năm, khi thôi việc ngay sẽ được trợ cấp 1,5 tháng tiền lương cho mỗi năm công tác có đóng BHXH và 03 tháng tiền lương hiện hưởng để tìm việc làm.
Để tạo điều kiện cho cán bộ, công chức, viên chức thuộc đối tượng tinh giản biên chế, Nghị định nêu rõ, cán bộ, công chức, viên chức dưới 45 tuổi, có sức khỏe, tinh thần trách nhiệm và ý thức tổ chức kỷ luật, đang đảm nhận công việc không phù hợp, được đi học nghề trước khi giải quyết thôi việc. Đồng thời, cán bộ, công chức còn được hưởng nguyên tiền lương tháng hiện hưởng, được đóng BHXH, bảo hiểm y tế trong thời gian đi học nghề, nhưng không quá 06 tháng; được trợ cấp một khoản kinh phí học nghề tối đa là 06 tháng tiền lương hiện hưởng; được trợ cấp ½ tháng tiền lương cho mỗi năm công tác có đóng BHXH... Thời gian đi học nghề được tính thời gian công tác liên tục của cán bộ, công chức, viên chức đó, nhưng không được tính thâm niên để nâng lương hàng năm. Đặc biệt, sau khi kết thúc học nghề, công chức, viên chức còn được trợ cấp 03 tháng lương hiện hưởng tại thời điểm đi học để tìm việc làm.
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10/01/2015; các chế độ, chính sách nêu trên được áp dụng đến hết ngày 31/12/2021.