Trong đó, Nghị định sửa đổi, bổ sung như sau:
- Thứ nhất, tổ chức, cá nhân được hưởng lợi từ dịch vụ môi trường rừng phải chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng cho bên cung ứng dịch vụ môi trường rừng.
- Thứ hai, về đối tượng được chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng. Theo đó, các đối tượng được chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng là các chủ rừng của các khu rừng có cung ứng dịch vụ môi trường rừng; Các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư thôn có hợp đồng nhận khoán bảo vệ rừng ổn định lâu dài với các chủ rừng là tổ chức nhà nước (sau đây viết chung là hộ nhận khoán).
- Thứ ba, sửa đổi, bổ sung về mức chi trả và xác định số tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng: (1) đối với các cơ sở sản xuất thủy điện, mức chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng áp dụng đối với các cơ sở sản xuất thủy điện là 36 đồng/kWh điện thương phẩm. Sản lượng điện để tính tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng là sản lượng điện của các cơ sở sản xuất thủy điện bán cho bên mua điện theo hợp đồng mua bán điện. (2) đối với các cơ sở sản xuất thủy điện: Mức chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng áp dụng đối với các cơ sở sản xuất thủy điện là 36 đồng/kWh điện thương phẩm. Sản lượng điện để tính tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng là sản lượng điện của các cơ sở sản xuất thủy điện bán cho bên mua điện theo hợp đồng mua bán điện.
Ngoài ra, Nghị định còn sửa đổi, bổ sung quy định về việc sử dụng tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng.
Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2017. Riêng mức chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng đối với các cơ sở sản xuất thủy điện quy định tại khoản 3 Điều 1 Nghị định này được áp dụng kể từ lần điều chỉnh giá bán lẻ điện đầu tiên sau khi Nghị định này có hiệu lực.