Một trong những hình thức PBGDPL đang được áp dụng tương đối rộng rãi, mang tính truyền thống ở Việt Nam hiện nay là PBGDPL trực tiếp. Điều này xuất phát từ đặc thù của nước ta về dân số, địa lý, điều kiện, hoàn cảnh sống, văn hóa vùng miền của người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế đặc biệt khó khăn. Đây cũng là hình thức được Luật PBGDPL quy định
[2]. Vì vậy, để công tác PBGDPL có hiệu quả thực sự thì chúng ta rất cần đội ngũ những người người có trình độ, hiểu biết, kỹ năng thực sự trong truyền thông (trực tiếp) để thực hiện nhiệm vụ PBGDPL cho người dân nhất là cho đối tượng đặc thù.
Từ trước đến nay, đã có nhiều sách vở, tài liệu đề cập đến vấn đề kỹ năng PBGDPL trực tiếp
[3]. Tuy nhiên, các tài liệu này chủ yếu tập trung vào những yêu cầu kỹ năng tương tác mang tính sư phạm thuần túy (âm thanh, ánh mắt, cử chỉ, thao tác…) mà chưa thực sự chú trọng đến đòi hỏi của sự “thấu hiểu” và
truyền thông bằng trái tim.
Chúng ta cần thống nhất rằng, người làm báo cáo viên pháp luật hoặc tham gia PBGDPL trực tiếp là người truyền thụ thông tin, kiến thức pháp luật cho người nghe. Nhưng giữa họ với một giáo viên hay giảng viên luật trong các cơ sở đào tạo thì có nhiều điểm không giống nhau (trong môi trường của cơ sở đào tạo, người nghe là người học, có nghĩa vụ học tập khi đến lớp theo quy chế đào tạo; chịu sự ràng buộc nhất định với người dạy, với nhà trường, trình độ kiến thức có sự tương đồng; người dạy có quyền và trách nhiệm sát hạch, kiểm tra kiến thức (đầu ra) sau khi kết thúc chương trình dạy…). Trong khi đó, đối với hoạt động PBGDPl thì gần như ngược lại khi người nghe có kiến thức, khả năng tiếp nhận khác nhau, không có sự ràng buộc, chỉ có sự động viên, khuyến khích người nghe mà không có bất kỳ mệnh lệnh nào ở đây….Do đó, kỹ năng của người làm công tác PBGDPL trực tiếp phải có tính chuyên biệt nhất định bên cạnh tính sư phạm và thực sự phải phù hợp với đối tượng người nghe. Nếu không đáp ứng được yêu cầu này, cho dù cố gắng đến mấy, việc phổ biến truyền thụ kiến thức pháp luật của các báo cáo viên pháp luật hay người tham gia PBGDPL sẽ không bao giờ thành công.
Thực tế, nhiều buổi thuyết trình, PBGDPL “tẻ nhạt” đã được thực hiện theo mong muốn của người nói nhiều hơn là của người nghe, nói những gì muốn nói hơn là nói những gì người nghe cần. Thống kê hàng năm trên cả nước có hàng trăm ngàn hội nghị PBGDPL trực tiếp nhưng chưa có bất kỳ căn cứ nào để khẳng định về tính hiệu quả của những hoạt động đó. Thậm chí, có quan điểm cho rằng cần hạn chế hình thức hội nghị này vì hiệu quả thấp, mang tính chiếu lệ giúp các báo cáo viên pháp luật “hoàn thành” công việc là chính.
Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn và khắc phục tình trạng “hình thức” như hiện nay, tôi nghĩ rằng người làm công tác PBGDPL có thể tham khảo và vận dụng các yêu cầu của CHÁNH NGỮ như đã nêu ở trên.
Đầu tiên, về vấn đề ngôn ngữ, chúng ta phải chuẩn bị kỹ đến mức thấu hiểu ngôn ngữ của người nghe. Ở đây tôi muốn đề cập hai ý như sau: (i) cần hiểu ngôn ngữ (tiếng mẹ đẻ) của người nghe là gì và mức độ, khả năng ngôn ngữ trong cuộc sống hàng ngày của người nghe như thế nào (tạm gọi là ngôn ngữ thực hành). Thực tế cho thấy có những người là đồng bào dân tộc thiểu số nhưng tiếng Việt của họ rất sõi nhưng ngược lại, có người dân tộc Kinh nhưng tiếng Việt lại tồi….(ii) Khi chúng ta đã biết được ngôn ngữ của người nghe là gì, khả năng ngôn ngữ của họ đến đâu thì cần phải xây dựng nội dung truyền đạt bảo đảm sự tương thích, phù hợp với mức độ (level) ngôn ngữ của người nghe, sao cho người nghe cảm nhận, thấu hiểu tất cả những gì ta muốn nói và ngược lại, thứ ngôn ngữ ta dùng truyền đạt chính là ngôn ngữ thực hành của người nghe trong cuộc sống hàng ngày và dành riêng cho chính họ chứ không ai khác. Lúc đó, ngôn ngữ người nói và người nghe hòa làm một, tạo ra sự thấu hiểu một cách sâu sắc của những gì cả hai bên cùng muốn nói và muốn nghe. Đây là một trong những yêu cầu kỹ năng mang tính chuyên biệt về ngôn ngữ của đội ngũ người làm công tác PBGDPL. Ví dụ như ngôn ngữ sử dụng để nói với các bạn trẻ sinh viên không thể dành cho người nông dân chỉ biết cây lúa và ruộng cày, có vốn ngôn từ mộc mạc, đơn giản hay cũng là người nông dân nhưng ở mỗi vùng miền thì cũng có sự khác nhau nhất định, phụ thuộc phần lớn vào tiếng bản địa hay còn gọi là địa phương ngữ..., Vấn đề này càng trở nên cần thiết hơn đối với người nghe là đối tượng đặc thù, trong đó có người khuyết tật và đồng bào dân tộc thiểu số. Tôi nhớ câu chuyện vui, khi có một báo cáo viên đến vùng đồng bào dân tộc ở một tỉnh Tây Nguyên để nói về an toàn giao thông, họ không biết giải thích “dung tích xi lanh” hay “phân khối” của xe cơ giới là gì cho người dân hiểu hay tương tự ở một lĩnh vực khác cũng gắn với cuộc sống của dân, đó là đất đai thì nào là “dồn điền, đổi thửa”, “diện tích, chu vi”…
Riêng đối với đồng bào dân tộc thiểu số, đây là vấn đề rất đáng suy ngẫm bởi nhìn từ yêu cầu về ngôn ngữ như phân tích ở trên, hơn ai hết, người làm công tác PBGDPL cho đối tượng này không chỉ phải biết về ngôn ngữ mà còn phải thấu hiểu ngôn ngữ hàng ngày của đồng bào khi truyền đạt, phổ biến kiến thức pháp luật cho họ. Hiện nay, ở Việt Nam chúng ta chưa có đội ngũ đạt được đồng thời cả hai yêu cầu trên. Đây là một trong những tồn tại, khó khăn của công tác PBGFPL cho đối tượng đặc thù này và chúng ta cần sớm có giải pháp căn cơ trong thời gian tới.
Thứ hai, cần lựa chọn nội dung phù hợp với trình độ của người nghe. Nếu chúng ta đã lựa chọn đúng ngôn ngữ cần sử dụng thì vấn đề tiếp theo là nội dung cần truyền tải phải được xác định phù hợp. Sẽ thất bại nếu chúng ta không biết đang nói chuyện với ai, có trình độ, kiến thức về xã hội nói chung như thế nào, đặc biệt là kiến thức pháp luật cơ bản của họ. Vì vậy, chúng ta phải chuẩn bị nội dung với độ rộng, hẹp, nông sâu như thế nào để bảo đảm không quá đơn giản nhưng cũng không được phức tạp với người nghe. Mỗi đối tượng sẽ có nhu cầu đầu vào thông tin và yêu cầu mục tiêu kết quả đầu ra khác nhau. Ví dụ: cùng một vấn đề cần nói cho lực lượng quân đội nhưng nội dung thông tin cho đội ngũ sĩ quan phải khác với nội dung dành cho các chiến sĩ tân binh….
Thứ ba, cần xác định trọng tâm nội dung phù hợp với nhu cầu của người nghe cũng như hoàn cảnh, điều kiện, đặc tính văn hóa…của họ. Nói một cách khác, trước hết, chúng ta cần phải chuẩn bị đúng vấn đề về nội dung và trúng trọng tâm theo yêu cầu, mong muốn của đối tượng. Như Cố Thiền sư Thích Nhất Hạnh nói, phải
tùy bệnh mà cho thuốc. Ví dụ: chúng ta không thể nói vấn đề pháp luật về công chức cho người nông dân đang làm việc ngoài đồng ruộng hay pháp luật về biên giới biển, hải đảo cho cư dân vùng núi, trung du không có biển…Phải trả lời bằng được câu hỏi: người nghe họ là ai và nhu cầu thông tin pháp luật của họ là gì và nhiệm vụ chúng ta chỉ được coi là hoàn thành khi nhu cầu của họ đã được thỏa mãn thưc sự. Ví như người đang khát thì chúng ta phải cho họ uống nước và người đói thì cần được ăn thức ăn vậy. PBGDPL là đưa pháp luật vào cuộc sống và vì vậy, nếu không “bắt mạch” được con đường và phát hiện những cánh cửa cuộc sống (chính là nhu cầu người dân) thì pháp luật luôn “đứng bên ngoài’ cuộc sống và việc chúng ta làm sẽ trở thành vô nghĩa.
Bên cạnh đó, người nói phải chú tâm đến tâm lý, lứa tuổi, giới tính và những yếu tố về văn hóa liên quan đến người nghe để lựa chọn ngôn từ, cách nói phù hợp, không động chạm đến lòng tự ái hay những vấn đề nhạy cảm với họ. Ví dụ, với đối tượng nghe là người khuyết tật, chúng ta không nên nói đến vấn đề sức khỏe thể chất với khả năng lao động; với trẻ em về vấn đề bạo lực hay vấn đề nghĩa vụ của con cái với người già bị bỏ rơi, không nơi nương tựa….bởi vì PBGDPL không chỉ làm thay đổi nhận thức, hiểu biết pháp luật mà còn phải tạo nên thái độ, tình cảm tích cực của người nghe đối với xã hội, mọi người xung quanh nhằm phòng tránh cách nhìn bi quan, oán giận với thế giới bên ngoài-một trong những nguyên nhân của vi phạm pháp luật.
Ngoài ra, người làm công tác PBGDPL phải tuân thủ tuyệt đối nguyên tắc “tôn trọng sự thật”. Các ví dụ nêu ra phải thực sự được lựa chọn kỹ lưỡng bảo đảm đó là những vấn đề có thật trong cuộc sống, gần gũi, dễ hiểu với người nghe. Không được “tô hồng” hay ngược lại “bôi đen” thực tế cuộc sống. Từ đó, chúng ta hướng cho người nghe đến với một “bức chân dung” cuộc sống sinh động, chân thực và chuyển tải những thông điệp có ý nghĩa, mang tính lạc quan, giúp cho người nghe cảm thấy thoải mái, vui vẻ và tin tưởng vào cuộc sống, vào pháp luật.
Tóm lại, với tính chất, mục tiêu, yêu cầu của công tác PBGDPL nói chung và PBGDPL theo hình thức trực tiếp nói riêng, người làm công tác này phải luôn xác định đây là việc khó, không chỉ thực hiện bằng kiến thức và những kỹ năng truyền thông, sư phạm thuần túy mà còn phải bằng cả trái tim, tình cảm dành cho người nghe, thấu hiểu sâu sắc và vận dụng nhuần nhụy tiêu chuẩn của Đức Phật về CHÁNH NGỮ. Có như vậy, công tác PBGDPL trực tiếp mới có thể đạt được mục tiêu cuối cùng, cao nhất mang tính nhân văn đó là: dân được nghe, được biết, được hiểu, được làm những gì thuộc về dân với tư cách là người làm chủ chính cuộc sống của mình và làm chủ xã hội, đất nước./.