Liên kết website

Thông cáo báo chí văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành trong tháng 08 năm 2024

30/09/2024

Thực hiện khoản 2, khoản 3 Điều 12 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 và Thông tư số 07/2021/TT-BTP ngày 01/11/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về quy định việc ban hành thông cáo báo chí về văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ Chính phủ ban hành, Bộ Tư pháp ra Thông cáo báo chí về một số văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành trong tháng 8 năm 2024, cụ thể như sau:

I. DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT ĐƯỢC BAN HÀNH
Trong tháng 8 năm 2024, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 07 văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể:
Các Nghị định của Chính phủ:
1. Nghị định số 105/2024/NĐ-CP ngày 01 tháng 8 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 96/2022/NĐ-CP ngày 29 tháng 11 năm 2022 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương và Nghị định số 26/2018/NĐ-CP ngày 28 tháng 02 năm 2018 của Chính phủ về Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tập đoàn Điện lực Việt Nam;
2. Nghị định số 106/2024/NĐ-CP ngày 01 tháng 8 năm 2024 của Chính phủ quy định chính sách hỗ trợ nâng cao hiệu quả chăn nuôi;
3. Nghị định số 107/2024/NĐ-CP ngày 20 tháng 8 năm 2024 của Chính phủ bãi bỏ một số văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ;
4. Nghị định số 108/2024/NĐ-CP ngày 23 tháng 8 năm 2024 của Chính phủ quy định việc quản lý, sử dụng và khai thác nhà, đất là tài sản công không sử dụng vào mục đích để ở giao cho tổ chức có chức năng quản lý, kinh doanh nhà địa phương quản lý, khai thác
5. Nghị định số 109/2024/NĐ-CP ngày 29 tháng 8 năm 2024 của Chính phủ quy định mức thu lệ phí trước bạ đối với ô tô, rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi ô tô và các loại xe tương tự xe ô tô được sản xuất, lắp ráp trong nước;
6. Nghị định số 110/2024/NĐ-CP ngày 30 tháng 8 năm 2024 của Chính phủ về công tác xã hội.
Các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ:
1. Quyết định số 13/2024/QĐ-TTg ngày 13 tháng 8 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính (cập nhật).
II. HIỆU LỰC THI HÀNH, SỰ CẦN THIẾT, MỤC ĐÍCH BAN HÀNH VÀ NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
Trên cơ sở thông tin do các bộ, cơ quan ngang bộ cung cấp[1], Bộ Tư pháp thông tin về hiệu lực thi hành, sự cần thiết, mục đích ban hành và nội dung chủ yếu của 05 văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành trong tháng 8 năm 2024 như sau:
1. Nghị định số 105/2024/NĐ-CP ngày 01 tháng 8 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 96/2022/NĐ-CP ngày 29 tháng 11 năm 2022 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương và Nghị định số 26/2018/NĐ-CP ngày 28 tháng 02 năm 2018 của Chính phủ về Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tập đoàn Điện lực Việt Nam
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 8 năm 2024.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
Ngày 06 tháng 6 năm 2023, Thủ tướng Chính phủ có Công điện số 517/CĐ-TTg, trong đó có nội dung giao Bộ Công Thương “Khẩn trương điều chỉnh việc quản lý, chỉ đạo Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia về Bộ Công Thương theo quy định của Đảng và Nhà nước trong tháng 6 năm 2023 và nghiên cứu thực hiện các chính sách phù hợp, hiệu quả”.
Ngày 21 tháng 6 năm 2023, Văn phòng Chính phủ có Thông báo số 235/TB-VPCP thông báo ý kiến kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang. Tại Thông báo này, Phó Thủ tướng Chính phủ đã kết luận “Bộ Công Thương tiếp thu ý kiến phát biểu của các Bộ, cơ quan tại cuộc họp; chủ trì, phối hợp với Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp và các Bộ, ngành khẩn trương xây dựng, hoàn thiện Đề án chuyển Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia về Bộ Công Thương dưới hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên theo quy định của pháp luật, trình Thủ tướng Chính phủ trong tháng 8 năm 2023…”
Ngày 01/8/2024 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 752/QĐ-TTg về việc tách Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia từ Tập đoàn Điện lực Việt Nam và chủ trương thành lập Công ty TNHH MTV Vận hành hệ thống điện và thị trường điện Quốc gia trực thuộc Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Ngày 01/8/2024 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 753/QĐ-TTg về việc Phê duyệt chủ trương chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại Công ty TNHH MTV Vận hành hệ thống điện và thị trường điện Quốc gia từ Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp về Bộ Công Thương.
Hiện nay, việc chỉ huy, điều hành hệ thống điện và thị trường điện đang là một trong các ngành nghề kinh doanh của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) (được giao cụ thể cho A0 thực hiện) quy định tại Điều lệ ban hành kèm theo Nghị định số 26/2018/NĐ-CP. Đồng thời, chức năng này đang được thực hiện theo các quy định tại Luật Điện lực (đối với đơn vị điều độ hệ thống điện và đơn vị điều hành giao dịch thị trường điện) và các Thông tư do Bộ Công Thương ban hành. Đối với các Thông tư của Bộ trưởng Bộ Công Thương: có nhiều nội dung liên quan đến quá trình chỉ huy, điều hành hệ thống điện và thị trường điện được giao cho EVN. Kết quả triển khai Đề án chuyển Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia về Bộ Công Thương dưới hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên theo quy định của pháp luật sẽ làm thay đổi chức năng “chỉ huy điều hành hệ thống sản xuất, truyền tải, phân phối và phân bổ điện năng trong hệ thống điện quốc gia” của EVN quy định tại Nghị định số 26/2018/NĐ-CP. Tuy nhiên, khi tách A0 khỏi EVN, trở thành một doanh nghiệp độc lập thuộc sự quản lý của Bộ Công Thương, việc điều chỉnh chức năng của EVN (được quy định tại Nghị định số 26/2018/NĐ-CP) là cần thiết. Đồng thời, nhằm làm rõ hơn chức năng quản lý nhà nước của Bộ Công Thương đối với đối với hoạt động chỉ huy, điều hành hệ thống điện và thị trường điện của Đơn vị điều độ vận hành hệ thống điện và Đơn vị điều hành giao dịch thị trường điện lực khi tách riêng khỏi EVN, một số nội dung tại Nghị định số 96/2022/NĐ-CP cần sửa đổi, bổ sung phù hợp.
Ngày 19 tháng 6 năm 2023, Quốc hội thông qua Luật Giá (có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2024). Theo đó, bổ sung giá phân phối điện và sửa đổi “phí điều độ vận hành hệ thống điện và phí điều hành giao dịch thị trường điện lực” thành “giá điều độ vận hành hệ thống điện và giá điều hành giao dịch thị trường điện lực”. Vì vậy, một số chức năng của Bộ Công Thương quy định tại Nghị định số 96/2022/NĐ-CP cần điều chỉnh để phù hợp với quy định tại Luật Giá và Luật Điện lực (đã được sửa đổi, bổ sung).
Do đó để có cơ sở pháp lý thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Bộ Công Thương liên quan đến điều độ vận hành hệ thống điện, điều hành giao dịch thị trường điện lực và giá phân phối điện cũng như để phù hợp với ngành, nghề kinh doanh của EVN sau khi chuyển đổi Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia (A0) về Bộ Công Thương, việc xây dựng Nghị định để sửa đổi, bổ sung một số điều khoản của Nghị định số 96/2022/NĐ-CP và Nghị định số 26/2018/NĐ-CP là cần thiết. 
- Mục đích ban hành:
Giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn, đồng thời đảm bảo tính pháp lý và tính kịp thời trong việc điều hành chỉ đạo A0 mới của Bộ Công Thương ngay sau khi A0 tách khỏi EVN và được chuyển giao về Bộ Công Thương quản lý từ ngày 01/8/2024 về việc quản lý, điều hành liên quan đến điều độ vận hành hệ thống điện, điều hành giao dịch thị trường điện lực và giá phân phối điện. Đảm bảo hoạt động cung ứng điện được an toàn, thông suốt, liên tục, ổn định, tin cậy.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định số 105/2024/NĐ-CP có 3 Điều sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 96/2022/NĐ-CP ngày 29 tháng 11 năm 2022 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương và Nghị định số 26/2018/NĐ-CP ngày 28 tháng 02 năm 2018 của Chính phủ về Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Cụ thể như sau:
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung khoản 7 Điều 2 Nghị định số 96/2022/NĐ-CP ngày 29 tháng 11 năm 2022 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương
- Sửa đổi, bổ sung điểm d và bổ sung điểm g khoản 7 Điều 2 Nghị định số 96/2022/NĐ-CP để làm rõ thêm chức năng quản lý nhà nước của Bộ Công Thương liên quan đến nhiệm vụ điều độ vận hành hệ thống điện, điều hành giao dịch thị trường điện lực của A0 sau khi tách ra khỏi EVN và cập nhật theo quy định tại Luật Điện lực và Luật giá 2023;
Điều 2. Sửa đổi, bãi bỏ một số điều của Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tập đoàn Điện lực Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định số 26/2018/NĐ-CP ngày 28 tháng 02 năm 2018 của Chính phủ
- Hiệu chỉnh nội dung “chỉ huy điều hành hệ thống sản xuất, truyền tải, phân phối và phân bổ điện năng trong hệ thống điện quốc gia” tại điểm a khoản 2 Điều 4 Điều lệ Tổ chức và hoạt động của Tập đoàn Điện lực Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định số 26/2018/NĐ-CP trong danh mục các ngành, nghề kinh doanh chính của Tập đoàn Điện lực Việt Nam theo hướng quy định nhiệm vụ “- Sản xuất, truyền tải, phân phối (bao gồm điều độ hệ thống điện phân phối) và kinh doanh mua bán điện năng;”.
- Sửa đổi đoạn cuối điểm i khoản 4 Điều 10 như sau: “Tổ chức thực hiện các biện pháp quản lý, vận hành hệ thống điện thuộc phạm vi quản lý theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo an ninh và an toàn hệ thống điện quốc gia; quản lý hệ thống điện, hệ thống thông tin nội bộ và hệ thống công nghệ thông tin phục vụ sản xuất, kinh doanh điện năng và thị trường điện thuộc phạm vi quản lý”.
- Sửa đổi khoản 1 Điều 18 như sau: "1. Kinh doanh đúng ngành, nghề đã đăng ký; đảm bảo chất lượng sản phẩm và dịch vụ do EVN thực hiện theo tiêu chuẩn đã đăng ký. Tuân thủ phương thức vận hành, lệnh chỉ huy, điều khiển của đơn vị điều độ hệ thống điện quốc gia theo quy định của pháp luật. Thực hiện thanh toán tiền điện và các nghĩa vụ khác theo quy định của Hợp đồng mua bán điện."
- Bãi bỏ Trung tâm Điều độ hệ thống điện Quốc gia tại Phụ lục danh sách các đơn vị trực thuộc Công ty mẹ - Tập đoàn Điện lực Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định số 26/2018/NĐ-CP.
Điều 3. Điều khoản thi hành
Bổ sung điều khoản quy định: “Nghị định này không làm thay đổi nghĩa vụ trong Hợp đồng BOT giữa chủ đầu tư các dự án điện và phía Việt Nam”.
2. Nghị định số 106/2024/NĐ-CP ngày 01 tháng 8 năm 2024 của Chính phủ quy định chính sách hỗ trợ nâng cao hiệu quả chăn nuôi
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 20 tháng 9 năm 2024.
Các nội dung hỗ trợ nâng cao hiệu quả chăn nuôi đã được phê duyệt trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành thì thực hiện theo nội dung đã được phê duyệt. Trường hợp đã trình cơ quan có thẩm quyền để được hưởng chính sách trước khi Nghị định này có hiệu lực thi hành thì tiếp tục hoàn chỉnh, bổ sung hồ sơ theo quy định tại Nghị định này.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
Cơ sở pháp lý:
Thể chế hóa các chủ trương tại Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Mục IV.2 Nghị quyết số 19-NQ/TW nêu rõ "Về chăn nuôi, phát triển chăn nuôi công nghiệp ứng dụng công nghệ cao; hỗ trợ chăn nuôi trang trại, gia trại thân thiện với môi trường. Kiên quyết di dời cơ sở chăn nuôi ra khỏi khu dân cư tập trung. Phát triển các giống đặc sản, chăn nuôi hữu cơ tạo ra sản phẩm có giá trị kinh tế cao, lợi thế cạnh tranh. Bố trí quỹ đất phù hợp cho phát triển chăn nuôi, nhất là ở các địa phương chuyên trồng lúa".
Luật Chăn nuôi năm 2018 quy định chính sách của Nhà nước về chăn nuôi (Điều 4). Theo đó, Nhà nước đầu tư, hỗ trợ, khuyến khích tổ chức, cá nhân trong một số hoạt động theo quy định.
Ngày 25/3/2022, Văn phòng Chính phủ đã có Văn bản số 1855/VPCP-NN về việc đề nghị xây dựng Nghị định quy định về chính sách đầu tư hỗ trợ nâng cao hiệu quả chăn nuôi, trong đó đồng ý xây dựng Nghị định quy định về chính sách đầu tư hỗ trợ nâng cao hiệu quả chăn nuôi.
Cơ sở thực tiễn
Trong những năm qua, Ngành chăn nuôi Việt Nam đã và đang có đóng góp hết sức quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô nói chung và tăng trưởng của ngành nông nghiệp nói riêng. Năm 2021, chăn nuôi đóng góp 25,2% vào GDP ngành nông nghiệp, tạo sinh kế cho gần 10 triệu hộ gia đình trên cả nước. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 làm đứt gãy nhiều chuỗi cung ứng dẫn đến giá nguyên liệu, vật tư đầu vào cho chăn nuôi tăng cao, giá thị trường đầu ra không ổn định, nhiều cơ sở chăn nuôi bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Bên cạnh đó, dịch bệnh truyền nhiễm trên vật nuôi (Dịch tả lợn Châu Phi, lở mồm long móng, viêm da nổi cục, cúm gia cầm...), thiên tai, biến đổi khí hậu và biến động thị trường... luôn là những yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất, kinh doanh của tổ chức, cá nhân hoạt động trong chăn nuôi. Nếu không có được nguồn lực và có chính sách để phát triển bền vững ngành chăn nuôi sẽ dẫn đến: (1) Mất an ninh dinh dưỡng quốc gia; (2) Khó khăn trong duy trì và phát triển sinh kế cho hàng triệu hộ chăn nuôi; (3) Suy giảm GDP nông nghiệp; (4) Biến động giá thực phẩm và góp phần bảo đảm quyền lợi của người tiêu dùng thực phẩm. Vì vậy, việc xây dựng các chính sách phù hợp và bố trí nguồn lực để hỗ trợ phát triển chăn nuôi bền vững là hết sức cần thiết, nhằm tiếp tục duy trì sản xuất diễn ra bình thường để bảo đảm cung ứng cơ bản đủ thực phẩm cho gần 100 triệu người dân và khách du lịch, góp phần vào tăng trưởng chung của ngành nông nghiệp trong việc thực hiện vai trò “trụ đỡ” của nền kinh tế và ổn định tình hình xã hội của cả nước. Đây cũng là nội dung gắn với mục tiêu phục hồi và phát triển kinh tế một cách căn cơ, hiệu quả và bền vững mà Đảng và Chính phủ đang đặt ra trong thời gian tới.
Chăn nuôi Việt Nam đang chuyển dịch nhanh theo hướng trang trại, công nghiệp chiếm trên 45% về quy mô và trên 60% về sản lượng nhưng đây cũng là loại hình kinh tế tạo được nhiều việc làm và góp phần cải thiện thu nhập của người dân ở khu vực nông thôn. Thực tế hiện nay rất cần chính sách đầu tư hỗ trợ nâng cao hiệu quả chăn nuôi để góp phần nâng cao tỷ trọng giá trị sản xuất chăn nuôi trong nông nghiệp, giá trị các sản phẩm chủ lực, có tiềm năng lợi thế ngày càng tăng; thị trường các sản phẩm gia súc, gia cầm nhìn chung ổn định, đảm bảo nâng cao hiệu quả cho người chăn nuôi; từng bước chuyển đổi hướng sản xuất từ chú trọng năng suất, sản lượng sang chất lượng và giá trị, an toàn thực phẩm; các tiến bộ kỹ thuật trong chăn nuôi được cập nhật, ứng dụng và chuyển giao có hiệu quả.
Như vậy, việc ban hành Nghị định là có cơ sở pháp lý, bảo đảm đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
- Mục đích ban hành:
Hoàn thiện chính sách được giao tại Điều 4 Luật Chăn nuôi và tạo động lực mạnh mẽ để ngành chăn nuôi phát triển bền vững, thực hiện các mục tiêu về phát triển chăn nuôi theo Chiến lược phát triển chăn nuôi giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2045 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1520/QĐ-TTg ngày 06/10/2020.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định bao gồm 06 Chương, 17 Điều quy định chính sách hỗ trợ nâng cao hiệu quả chăn nuôi, cụ thể như sau:
- Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Nghị định quy định một số chính sách hỗ trợ phát triển chăn nuôi bao gồm: sản xuất thức ăn chăn nuôi từ nguyên liệu sản xuất trong nước, phát triển thị trường sản phẩm chăn nuôi, hỗ trợ di dời cơ sở chăn nuôi; chính sách hỗ trợ, khuyến khích nâng cao hiệu quả chăn nuôi bao gồm: hỗ trợ phối giống nhân tạo đối với trâu, bò, lợn, hỗ trợ mua đực giống trâu, bò, dê, cừu, lợn, hươu sao, hỗ trợ mua gà, vịt, ngan giống cấp bố mẹ và khuyến khích xử lý chất thải chăn nuôi.
- Điều 2. Đối tượng áp dụng
Tổ chức, cá nhân, tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, doanh nghiệp có hoạt động trong chăn nuôi được quy định tại Nghị định này (sau đây gọi tắt là tổ chức, cá nhân).
- Điều 3. Giải thích từ ngữ
- Điều 4. Nguyên tắc thực hiện chính sách hỗ trợ
- Điều 5. Hỗ trợ sản xuất, chế biến, bảo quản và tiêu thụ nguyên liệu trong nước để sản xuất thức ăn chăn nuôi
- Điều 6. Hỗ trợ phát triển thị trường sản phẩm chăn nuôi
- Điều 7. Chính sách hỗ trợ di dời cơ sở chăn nuôi ra khỏi khu vực không được phép chăn nuôi
- Điều 8. Hỗ trợ phối giống nhân tạo đối với trâu, bò, lợn
- Điều 9. Hỗ trợ mua đực giống trâu, bò, dê, cừu, lợn, hươu sao và gà, vịt, ngan giống cấp bố mẹ
- Điều 10. Chính sách khuyến khích xử lý chất thải chăn nuôi
- Điều 11. Nguồn vốn
- Điều 12. Cơ chế
- Điều 13. Trình tự và thủ tục hỗ trợ đối với các chính sách hỗ trợ đầu tư theo Luật Đầu tư công
- Điều 14. Trình tự và thủ tục hỗ trợ đối với các chính sách sử dụng vốn sự nghiệp nguồn ngân sách nhà nước
- Điều 15. Trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ
- Điều 16. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
- Điều 17. Hiệu lực thi hành
3. Nghị định số 107/2024/NĐ-CP ngày 20 tháng 8 năm 2024 của Chính phủ bãi bỏ một số văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 20 tháng 8 năm 2024.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
Thời gian qua, một số bộ, cơ quan ngang bộ đã thực hiện rà soát và phát hiện một số văn bản quy phạm pháp luật không còn được áp dụng trên thực tế nhưng chưa có căn cứ pháp lý để xác định hết hiệu lực theo quy định tại các Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (năm 1996, năm 2008, năm 2015 và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật). Về nguyên tắc, các văn bản này vẫn được xác định là “còn hiệu lực”. Do đó, để bảo đảm tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật, đồng thời bảo đảm tuân thủ đúng quy định về hiệu lực của văn bản theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2020), Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (được sửa đổi, bổ sung bởi các Nghị định số 154/2020/NĐ-CP, Nghị định số 59/2024/NĐ-CP), việc ban hành văn bản để bãi bỏ các văn bản nêu trên là cần thiết.
Thực hiện Nghị quyết số 23/NQ-CP ngày 08/4/2018 của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3 năm 2018, trên cơ sở đề xuất của các bộ, cơ quan, Bộ Tư pháp đã tổng hợp và thấy rằng có 10 văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ[2] cần được bãi bỏ toàn bộ.
- Mục đích ban hành:
Xử lý hiệu lực của các văn bản quy phạm pháp luật đã không còn được áp dụng trên thực tế nhưng chưa có căn cứ xác định hết hiệu lực theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 02 Điều bãi bỏ một số văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, cụ thể như sau:
- Điều 1: Quy định việc bãi bỏ toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật (10 văn bản). Các văn bản bãi bỏ toàn bộ được sắp xếp theo phạm vi điều chỉnh (trong đó các văn bản điều chỉnh về cùng một vấn đề được sắp xếp gần nhau) và theo thứ tự thời gian ban hành (từ văn bản ban hành trước đến văn bản ban hành sau).
- Điều 2: Quy định về điều khoản thi hành (Hiệu lực thi hành và trách nhiệm thi hành Nghị định).
Nghị định chỉ bãi bỏ toàn bộ một số văn bản của Chính phủ không còn được áp dụng trên thực tế; Nghị định không quy định chính sách mới hay sửa đổi, bổ sung chính sách hiện có trong các nghị định, do vậy không làm phát sinh nguồn nhân lực và tài chính trong triển khai, thi hành Nghị định sau khi được Chính phủ ban hành.
Nghị định không có nội dung liên quan đến vấn đề bình đẳng giới và không quy định về thủ tục hành chính hoặc làm phát sinh thủ tục hành chính theo quy định tại Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày 08/6/2010 của Chính phủ về kiểm soát thủ tục hành chính (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 48/2013/NĐ-CP ngày 14/5/2013 của Chính phủ và Nghị định số 92/2017/NĐ-CP ngày 07/8/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định liên quan đến kiểm soát thủ tục hành chính).
4. Nghị định số 110/2024/NĐ-CP ngày 30 tháng 8 năm 2024 của Chính phủ về công tác xã hội
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 10 năm 2024.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
Cơ sở chính trị, pháp lý
+ Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII đã xác định chủ trương: “Gắn chính sách phát triển kinh tế với chính sách xã hội, quan tâm lĩnh vực công tác xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân”[3] , “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển là một chủ trương lớn, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta”[4].
+ Điều 34 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội”.
+ Khoản 2 Điều 19 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định Chính phủ ban hành nghị định để quy định: “Các biện pháp để thực hiện chính sách kinh tế - xã hội” và “các vấn đề khác thuộc thẩm quyền quản lý, điều hành của Chính phủ”.
+ Điều 6 Luật Tổ chức Chính phủ quy định: “Chỉ đạo triển khai và kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, nghị định, chương trình công tác của Chính phủ” và  “Ban hành kịp thời và đầy đủ các văn bản pháp luật để thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội”.
+ Điều 15 Luật Tổ Chức chính phủ quy định: “Phát triển hệ thống an sinh xã hội; chỉ đạo thực hiện các chương trình xóa đói, giảm nghèo; thực hiện trợ giúp xã hội, có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn”.
+ Căn cứ Luật Người cao tuổi, Luật Người khuyết tật, Luật Nuôi con nuôi, Luật Trẻ em, Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.
+ Quyết định số 1983/QĐ-TTg ngày 24 tháng 11 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành kế hoạch triển khai thực hiện kết luận số 92-KL/TW ngày 5 tháng 11 năm 2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết hội nghị Trung ương 5 khóa XI một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020, trong đó tại mục IV. Phụ lục phân công thực hiện kết luận số 92-KL/TW ngày 5 tháng 11 năm 2020 của Bộ Chính trị: “Phát triển hệ thống dịch vụ xã hội chuyên nghiệp, đa dạng, linh hoạt cả về chất lượng và số lượng, đáp ứng nhu cầu và khả năng tiếp cận của người dân” giao Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội xây dựng Nghị định về Công tác xã hội.
Cơ sở thực tiễn
Hiện nay, ước tính số lượng người yếu thế, dễ bị tổn thương, có hoàn cảnh khó khăn có nhu cầu sử dụng dịch vụ công tác xã hội nhằm giải quyết các vấn đề xã hội chiếm khoảng 20% dân số; trong đó có khoảng 17 triệu người cao tuổi, 7,06 triệu người khuyết tật, 10 triệu người có vấn đề sức khỏe tâm thần, 2 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, khoảng 2,23% hộ nghèo và 3,1% hộ cận nghèo, 3,3 triệu người đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng và 1,5 triệu lượt hộ gia đình cần được trợ giúp đột xuất hàng năm. Việt Nam là một trong các quốc gia có tốc độ già hoá dân số nhanh nhất thế giới và dự báo đến năm 2025, tỷ lệ người cao tuổi của Việt Nam sẽ vào khoảng 20% và năm 2035 sẽ là 30% dân số. Ngoài ra, tình trạng bạo lực, bạo hành gia đình, phụ nữ, trẻ em bị ngược đãi, bị buôn bán, bị xâm hại; trẻ em lang thang kiếm sống trên đường phố, các vấn đề về hôn nhân gia đình, phòng chống HIV/AIDS, phòng chống tệ nạn ma tuý, mại dâm và vấn đề già hóa dân số đang tiếp tục là những vấn đề xã hội nóng, bức xúc cần phải tập trung giải quyết.
Để phát triển đội ngũ những người làm công tác xã hội chuyên nghiệp trợ giúp cho người yếu thế, dễ bị tổn thương, hoàn cảnh khó khăn, gặp rủi ro trong cuộc sống giải quyết các vấn đề xã hội, xây dựng cuộc sống hạnh phúc, ấm no, nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành như: Luật Người cao tuổi, Luật Người khuyết tật, Luật Trẻ em, Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg ngày 25/3/2010 phê duyệt Đề án phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010 – 2020; Quyết định số 112/QĐ-TTg ngày 22/01/2022 ban hành Chương trình phát triển công tác xã hội giai đoạn 2021 - 2030. Đây là các cơ sở pháp lý để các Bộ, ngành và địa phương triển khai phát triển công tác xã hội tại Việt Nam, đến nay lĩnh vực công tác xã hội đã đạt được một số thành tựu chủ yếu như sau:
Thứ nhất, khung pháp lý phát triển nghề công tác xã hội chuyên nghiệp đã được hình thành, Chính phủ đã ban hành 06 Nghị định có liên quan, Thủ tướng Chính phủ ban hành 08 Quyết định, các Bộ ban hành 11 Thông tư và Thông tư liên tịch liên quan đến phát triển nghề công tác xã hội. Trong đó, có các quy định về tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức công tác xã hội, tiêu chuẩn chăm sóc đối tượng tại các cơ sở trợ giúp xã hội, tiêu chuẩn cộng tác viên công tác xã hội cấp xã, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của trung tâm công tác xã hội, quản lý trường hợp, quy định về chế độ tiền lương đối với đội ngũ viên chức công tác xã hội và phụ cấp ưu đãi đối với công chức, viên chức, người lao động làm việc tại cơ sở trợ giúp xã hội.
Thứ hai, mạng lưới các cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội đã hình thành tại ngành Lao động - Thương binh và Xã hội, ngành Y tế, Giáo dục, một số cơ sở thuộc các hội, đoàn thể chính trị - xã hội. Trong đó, với hơn 600 cơ sở có cung cấp dịch vụ công tác xã hội công lập và ngoài công lập, chăm lo cho người cao tuổi, người khuyết tật, chăm sóc, bảo vệ trẻ em, cai nghiện ma túy và các đối tượng yếu thế khác. Các cơ sở cung cấp các dịch vụ về công tác xã hội như tư vấn, tham vấn, can thiệp, trị liệu tâm lý, phục hồi chức năng, giáo dục đặc biệt, dạy văn hoá, dạy nghề, giáo dục hướng nghiệp, chăm sóc sức khỏe và tinh thần cho hàng triệu lượt đối tượng. Đến nay, 100% các tỉnh, thành phố có cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội thuộc ngành Lao động-Thương binh và Xã hội; 100% Bệnh viện tuyến Trung ương, tuyến tỉnh đã thành lập các phòng, bộ phận công tác xã hội; các trường học hình thành vị trí hoặc bộ phận công tác xã hội học đường đối với học sinh, sinh viên.
Thứ ba, đội ngũ công chức, viên chức, nhân viên và cộng tác viên làm công tác xã hội chuyên nghiệp đã được hình thành với khoảng 235 nghìn người, trong đó có 35.000 công chức, viên chức và người lao động làm việc tại các cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội công lập và ngoài công lập, gần 100 nghìn người làm việc tại các hội, đoàn thể các cấp; trên 100 nghìn cộng tác viên giảm nghèo, phòng chống tệ nạn xã hội, bảo vệ trẻ em và phát triển cộng đồng. Mạng lưới cán bộ, nhân viên và cộng tác viên công tác xã hội trợ giúp hiệu quả, bền vững các người yếu thế, dễ bị tổn thương, hoàn cảnh khó khăn, gặp rủi ro trong cuộc sống tiếp cận, thụ hưởng các chính sách phúc lợi xã hội, dịch vụ xã hội để ổn định cuộc sống, xây dựng cuộc sống hạnh phúc.
Thứ tư, việc đào tạo công tác xã hội chuyên nghiệp đã phát triển mạnh mẽ, số lượng các cơ sở có đào tạo chuyên ngành công tác xã hội tăng nhanh. Đến nay, có 55 trường đại học, cao đẳng và 21 cơ sở dạy nghề có đào tạo chuyên ngành công tác xã hội. Chuyên ngành công tác xã hội đã thu hút được nhiều học sinh theo học (số tuyển sinh hàng năm khoảng 3.500 chỉ tiêu công tác xã hội/năm; có 05 trường đã tiến hành đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ ngành công tác xã hội). Đội ngũ giảng viên, cán bộ, nhân viên, cộng tác viên công tác xã hội phát triển cả về số lượng và chất lượng. Hàng năm, có hơn 10.000 lượt cán bộ, nhân viên và cộng tác viên công tác xã hội được bồi dưỡng nghiệp vụ công tác xã hội.
Thứ năm, nhận thức về vai trò, vị trí của công tác xã hội trong quá trình xây dựng nền an sinh xã hội tiên tiến của đất nước ở nhiều cấp, ngành đã có sự thay đổi. Nhiều địa phương đã chủ động triển khai Chương trình phát triển công tác xã hội trên địa bàn. Số lượng người dân có nhu cầu được tiếp cận, hỗ trợ dịch vụ công tác xã hội ngày càng tăng. Công tác truyền thông về công tác xã hội được đẩy mạnh, giúp các ngành, các cấp và người dân có nhận thức đúng hơn về vai trò, vị trí của công tác xã hội.
Tuy nhiên, khuôn khổ pháp lý phát triển công tác xã hội vẫn còn những tồn tại, hạn chế như các quy định về phát triển công tác xã hội được quy định tản mạn tại nhiều văn bản, hình thức chủ yếu là văn bản cá biệt, quyết định của Thủ tướng Chính phủ và thông tư của các bộ; chưa có văn bản quy phạm pháp luật quy định tổng thể, đầy đủ, chuyên sâu về công tác xã hội, quyền và nghĩa vụ của đối tượng công tác xã hội, người hành nghề công tác xã hội, quy trình và các điều kiện đảm bảo cung cấp dịch vụ công tác xã hội, trách nhiệm quản lý nhà nước và điều khoản thi hành về công tác xã hội.
Ngoài ra, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế cho thấy, để phát triển công tác xã hội chuyên nghiệp, hiệu quả, bền vững, cần thiết phải quy định trình độ đào tạo, thời gian thực hành, điều kiện hành nghề của người làm công tác xã hội; tổ chức kiểm tra đánh giá năng lực hành nghề công tác xã hội, thẩm quyền, hồ sơ, thủ tục cấp, cấp lại, điều chỉnh và thu hồi giấy phép hành nghề công tác xã hội; đăng ký hành nghề công tác xã hội; quyền và nghĩa vụ của người hành nghề công tác xã hội; việc cung cấp dịch vụ công tác xã hội cho người dân có nhu cầu.
Để giải quyết những bất cập về pháp luật nêu trên, cần ban hành một văn bản quy phạm pháp luật với hình thức là Nghị định để điều chỉnh đầy đủ, toàn diện các vấn đề liên quan đến công tác xã hội; góp phần thực hiện Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII: “Ưu tiên xây dựng các luật về kinh tế, về các quyền công dân…” và “Quan tâm lĩnh vực công tác xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân7, thể chế hóa các chủ trương của Đảng vào đời sống xã hội, cũng như giải quyết bền vững các vấn đề xã hội. 
- Mục đích ban hành:
Tạo khuôn khổ pháp lý thống nhất, đồng bộ, khả thi, hiệu lực, hiệu quả, thúc đẩy phát triển công tác xã hội chuyên nghiệp; góp phần phòng ngừa, can thiệp, trị liệu, phục hồi chức năng và tăng vận động nguồn lực từ cá nhân, nhóm, gia đình, cộng đồng giải quyết các vấn đề xã hội nhằm bảo đảm an sinh xã hội, công bằng xã hội, xây dựng hạnh phúc của nhân dân.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm có 5 chương và 48 điều về công tác xã hội, cụ thể như sau:
- Phạm vi điều chỉnh:
Nghị định này quy định quyền và nghĩa vụ của đối tượng công tác xã hội; quyền và nghĩa vụ của người hành nghề công tác xã hội; điều kiện đăng ký hành nghề công tác xã hội; thực hành nghề công tác xã hội; thẩm quyền, hồ sơ, thủ tục cấp, cấp lại và thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hành nghề công tác xã hội.
- Đối tượng áp dụng:
Nghị định này áp dụng đối với người làm công tác xã hội, người hành nghề công tác xã hội; cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và cá nhân nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là tổ chức, cá nhân); cá nhân, nhóm, gia đình và cộng đồng thực hiện các hoạt động liên quan đến công tác xã hội tại Việt Nam.
- Quyền của đối tượng công tác xã hội:
Quy định quyền: (i) được tham vấn, tư vấn sử dụng dịch vụ công tác xã hội; (ii) được tôn trọng bí mật riêng tư; (iii) được tôn trọng danh dự, bảo vệ trong quá trình sử dụng dịch vụ công tác xã hội; (iv) được lựa chọn sử dụng dịch vụ công tác xã hội; (v) được cung cấp thông tin; (vi) được từ chối sử dụng dịch vụ công tác xã hội và rời khỏi cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội; (vii) sử dụng dịch vụ công tác xã hội của người chưa thành niên, người bị mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, hạn chế năng lực hành vi dân sự.
- Nghĩa vụ của đối tượng công tác xã hội:
Quy định nghĩa vụ: (i) tôn trọng người hành nghề và người khác làm việc tại cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội; (ii) chấp hành các quy định trong quá trình sử dụng dịch vụ công tác xã hội; (iii) chi trả chi phí sử dụng dịch vụ công tác xã hội.
- Quyền của người hành nghề công tác xã hội:
Quy định quyền: (i) hành nghề công tác xã hội; (ii) từ chối cung cấp dịch vụ công tác xã hội; (iii) được nâng cao năng lực chuyên môn công tác xã hội; (iv) được bảo đảm an toàn khi hành nghề công tác xã hội; (v) được thực hiện biện pháp can thiệp công tác xã hội.
- Nghĩa vụ của người hành nghề công tác xã hội:
Quy định nghĩa vụ của người hành nghề công tác xã hội: (i) đối với đối tượng sử dụng dịch vụ công tác xã hội; (ii) đối với nghề nghiệp; (iii) đối với đồng nghiệp; (iv) đối với xã hội; (v) về thực hiện đạo đức nghề nghiệp.
- Điều kiện hành nghề:
Quy định: (i) điều kiện hành nghề công tác xã hội; (ii) các trường hợp bị cấm hành nghề công tác xã hội; (iii) sử dụng ngôn ngữ trong hành nghề công tác xã hội; (iv) cập nhật kiến thức công tác xã hội.
- Thực hành công tác xã hội:
Quy định: (i) thực hành công tác xã hội; (ii) tổ chức việc thực hành công tác xã hội; (iii) đào tạo, bồi dưỡng người hành nghề công tác xã hội và người làm công tác xã hội.
- Đăng ký hành nghề công tác xã hội:
Quy định: (i) giấy chứng nhận đăng ký hành nghề công tác xã hội; (ii) thẩm quyền cấp, cấp lại, thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hành nghề công tác xã hội; (iii) hồ sơ đề nghị cấp mới giấy chứng nhận đăng ký hành nghề công tác xã hội; (iv) thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký hành nghề công tác xã hội; (v) cấp lại giấy chứng nhận đăng ký hành nghề công tác xã hội; (vi) thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hành nghề công tác xã hội; (vii) đăng ký hành nghề công tác xã hội tại Việt Nam đối với người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
- Hiệu lực và trách nhiệm thi hành:
+ Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 10 năm 2024.
+ Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2027, người hành nghề công tác xã hội phải có giấy chứng nhận đăng ký hành nghề công tác xã hội theo quy định tại Nghị định này.
+ Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.
5. Quyết định số 13/2024/QĐ-TTg ngày 13 tháng 8 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính (cập nhật)
a) Hiệu lực thi hành: Quyết định có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 10 năm 2024.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
Căn cứ chính trị, pháp lý
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra những định hướng lớn để phát triển đất nước, ứng phó với biến đổi khí hậu là một trong những nội dung quan trọng, bao gồm chủ động ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu; phát triển kinh tế xanh, kinh tế các-bon thấp, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính. Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI coi chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn và quyết định sự phát triển bền vững của đất nước. Ứng phó với biến đổi khí hậu phải được đặt trong mối quan hệ toàn cầu; không chỉ là thách thức mà còn tạo cơ hội thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển bền vững. Kết luận số 56-KL/TW ngày 23/8/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đã đề ra nhiều nhiệm vụ quan trọng, trong đó ứng phó với biến đổi khí hậu phải đặt ở vị trí trung tâm của các quyết định phát triển.
Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã quy định về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính tại Điều 91, theo đó quy định Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính, cập nhật 02 năm một lần trên cơ sở tỷ trọng phát thải khí nhà kính trên tổng phát thải khí nhà kính quốc gia, điều kiện và tình hình phát triển kinh tế - xã hội.
Nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 07/01/2022 của Chính phủ quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn đã quy định Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh rà soát, tổng hợp, xây dựng danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính trình Thủ tướng Chính phủ ban hành; định kỳ 02 năm một lần trình Thủ tướng Chính phủ quyết định cập nhật danh mục lĩnh vực, cơ sở phải kiểm kê khí nhà kính.
Trên cơ sở đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì, phối hợp với các Bộ có liên quan và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính tại Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg ngày 18/01/2022.
Thực hiện quy định của Luật Bảo vệ môi trường và Nghị định số 06/2022/NĐ-CP của Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương rà soát, cập nhật danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, ban hành Quyết định danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính (cập nhật).
Đánh giá tình hình thực hiện Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg ngày 18/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính
Trong thời gian qua, việc triển khai thực hiện Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã đạt được một số kết quả tích cực như sau:
 - Các lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính theo quy định tại Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg đều nhận thức đầy đủ về trách nhiệm pháp lý của mình trong thực hiện kiểm kê khí nhà kính; đã rà soát và cải thiện hệ thống cơ sở dữ liệu hiện có nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm kê khí nhà kính theo lĩnh vực, nguồn phát thải;
- Việc định kỳ cung cấp số liệu phục vụ kiểm kê khí nhà kính từ các Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động quản lý nhà nước về giảm phát thải khí nhà kính và góp phần huy động sự tham gia của toàn dân thực hiện các mục tiêu giảm phát thải quốc gia, hướng đến mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050;
- Các địa phương đã từng bước hoàn thiện cơ quan chuyên môn về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính; tăng cường kết nối giữa cơ quan quản lý trung ương, địa phương, cơ sở phát thải khí nhà kính trong thực hiện kiểm kê khí nhà kính và giảm phát thải khí nhà kính;
- Nhiều doanh nghiệp lớn trong nước và doanh nghiệp nước ngoài đã tích cực triển khai các hoạt động nâng cao nhận thức, kiểm kê khí nhà kính, giảm phát thải khí nhà kính và coi đây là cơ hội để nâng cao hình ảnh chuyển đổi xanh của doanh nghiệp tạo sự lan tỏa ra cộng đồng;
- Các hoạt động đào tạo, tăng cường năng lực về kiểm kê khí nhà kính, giảm phát thải khí nhà kính đã được tổ chức rộng rãi đến các cán bộ phụ trách công tác quản lý nhà nước về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, các tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp và người dân; 
- Việc thực hiện kiểm kê khí nhà kính và giảm phát thải khí nhà kính của các doanh nghiệp là bước chuẩn bị để đáp ứng các yêu cầu của Cơ chế điều chỉnh biên giới các-bon (CBAM) của Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ. Cơ chế CBAM của Liên minh châu Âu áp dụng từ tháng 10 năm 2023, áp giá các-bon cho hàng nhập khẩu dựa trên cường độ phát thải khí nhà kính của quy trình sản xuất và đặt ra yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu vào châu Âu phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính, trước mắt là sắt thép, nhôm, xi măng, phân bón, điện, hydrogen và sẽ tiếp tục mở rộng thêm các lĩnh vực khác. Hoa Kỳ dự kiến sẽ áp dụng Cơ chế CBAM trong năm 2024.
Tuy nhiên, trong quá trình theo dõi tình hình triển khai thực hiện Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg còn có một số tồn tại, hạn chế do tổ chức thi hành:
- Mặc dù việc thu thập, xử lý số liệu, tính toán kiểm kê khí nhà kính, tuân thủ các quy định về kiểm kê khí nhà kính được phổ biến, hướng dẫn đầy đủ. Tuy nhiên, đây là vấn đề mới nên việc triển khai thực hiện còn có những hạn chế; tính nhất quán về phương pháp tính toán, lựa chọn phương pháp luận còn hạn chế; đội ngũ cán bộ kỹ thuật, chuyên gia về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính còn thiếu tại địa phương, doanh nghiệp và chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
- Qua rà soát một số cơ sở hiện nay đã thay đổi địa chỉ, hoạt động, đổi tên, chuyển đổi kinh doanh hoặc ngừng hoạt động đến thời điểm cập nhật; một số cơ sở vừa đáp ứng các tiêu chí phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính nhưng chưa có tên trong danh mục.
- Danh mục cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính tại Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg chưa bao gồm các cơ sở thuộc lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn.
 Trên cơ sở các kết quả tích cực và tồn tại nêu trên, việc cập nhật danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải kiểm kê khí nhà kính trình Thủ tướng Chính phủ ban hành là cần thiết để thực hiện tốt các quy định của Luật Bảo vệ môi trường, góp phần thực hiện hiệu quả các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính, phát triển kinh tế xanh, kinh tế các-bon thấp, hướng tới thực hiện mục tiêu đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, thực hiện các cam kết quốc tế về ứng phó biến đổi khí hậu.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định bao gồm 03 Điều và Phụ lục ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính (cập nhật), cụ thể như sau:
- Điều 1: Ban hành Danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính cập nhật năm 2024;
- Điều 2: Tổ chức thực hiện;
- Điều 3: Điều khoản thi hành;
- Phụ lục: gồm 05 phụ lục.
Trên đây là Thông cáo báo chí văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành trong tháng 8 năm 2024, Bộ Tư pháp xin thông báo./.
 

[1] Chưa bao gồm văn bản của Bộ Tài chính.
[2] Thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của các bộ: Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính.
[3] Văn kiện Đại hội, Đại biểu Toàn quốc lần thứ XIII – Tập I. Nxb CTQG Sự Thật, Hà Nội 2021, tr. 148.
[4] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 79.
7 Văn kiện Đại hội, Đại biểu Toàn quốc lần thứ XIII – Tập I. Nxb CTQG Sự Thật, Hà Nội 2021, tr. 148.
Các tin đã đưa ngày: