Cụ thể, doanh nghiệp nhỏ và vừa muốn được bảo lãnh vay vốn ngân hàng thương mại phải đáp ứng một số điều kiện nhất định như: Có vốn chủ sở hữu tham gia tối thiểu 15% tổng mức đầu tư của dự án và được đầu tư toàn bộ vào tài sản cố định; tại thời điểm đề nghị bảo lãnh không có nợ xấu tại các tổ chức tín dụng và Ngân hàng Phát triển; dự án đầu tư có văn bản chấp thuận cho vay của ngân hàng thương mại và được Ngân hàng Phát triển thẩm định và xác định là dự án có hiệu quả, có khả năng hoàn trả vốn vay...
Bên cạnh đó, Thông tư cũng có quy định chi tiết về thời hạn, lãi suất nhận nợ bắt buộc. Theo đó, trường hợp Ngân hàng Phát triển trả nợ thay, DN phải nhận nợ bắt buộc với Ngân hàng Phát triển. Trong đó, thời hạn trả nợ được xác định căn cứ vào phương án sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của DN và lãi suất nhận nợ bắt buộc bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn áp dụng đối với tổ chức kinh tế của ngân hàng thương mại nhận bảo lãnh đối với khoản cho vay cùng kỳ hạn tại thời điểm nhận nợ bắt buộc. Khi đến thời hạn trả nợ vay bắt buộc, DN không trả nợ hoặc không trả được hoặc trả chưa hết nợ, Ngân hàng Phát triển có thể căn cứ vào nguyên nhân DN khó khăn tài chính tạm thời để quyết định theo thẩm quyền xử lý rủi ro hoặc trình cấp có thẩm quyền quyết định việc cơ cấu lại nợ, xử lý tài sản bảo đảm, xử lý rủi ro bảo lãnh.
Theo Thông tư này, 01 dự án đầu tư chỉ được gia hạn thời gian trả nợ bắt buộc 01 lần; thời gian gia hạn nợ tối đa không vượt quá thời gian trả nợ bắt buộc quy định trong hợp đồng nhận nợ bắt buộc và lãi suất gia hạn nợ bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn áp dụng đối với tổ chức kinh tế của ngân hàng thương mại nhận bảo lãnh đối với khoản cho vay cùng kỳ hạn áp dụng tại thời điểm gia hạn nợ.
Để đề phòng rủi ro bảo lãnh: Ngân hàng Phát triển được lập Quỹ dự phòng rủi ro bảo lãnh và nguồn để trích lập Quỹ dự phòng rủi ro bảo lãnh được thực hiện theo quy định tại Quy chế bảo lãnh ban hành kèm theo Quyết định số 03/2011/QĐ-TTg. Quỹ dự phòng rủi ro bảo lãnh được sử dụng để hạch toán ngoại bảng đối với dư nợ gốc của các khoản nợ gặp rủi ro; bù đắp phần chênh lệch giá bán nợ thấp hơn giá trị sổ sách (nợ gốc) của khoản nợ theo quy định xử lý rủi ro vốn vay tại Ngân hàng Phát triển. Số tiền thu hồi được từ các khoản bảo lãnh đã được xử lý rủi ro, kể cả số tiền thu hồi được từ việc xử lý tài sản bảo đảm, được bổ sung Quỹ dự phòng rủi ro bảo lãnh theo quy định. Ngân hàng Phát triển quản lý, sử dụng và hạch toán kế toán Quỹ dự phòng rủi ro bảo lãnh theo quy định; Trường hợp Quỹ dự phòng rủi ro bảo lãnh không đủ bù đắp rủi ro bảo lãnh thì Ngân hàng Phát triển báo cáo Bộ Tài chính và các đơn vị có liên quan trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 06/06/2014.