Theo Nghị định này, thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi được quy định cụ thể như sau: đối với việc nuôi con nuôi trong nước, thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của người được nhận làm con nuôi thực hiện việc đăng ký nuôi con nuôi; đối với việc nuôi con nuôi nước ngoài thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi thường trú của người được nhận làm con nuôi quyết định cho người đó làm con nuôi, Sở Tư pháp thực hiện việc đăng ký nuôi con nuôi nước ngoài sau khi có quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; đối với việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau tạm trú ở nước ngoài thì cơ quan đại diện nơi tạm trú của người được nhận làm con nuôi hoặc của người nhận con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi.
Về mức thu lệ phí đăng ký nuôi con nuôi: đăng ký nuôi con nuôi trong nước là 400.000đ/trường hợp; đăng ký nuôi con nuôi nước ngoài là 9.000.000đ/trường hợp; đăng ký nuôi con nuôi tại cơ quan đại diện là 3.000.000đ/trường hợp. Mức lệ phí này được quy đổi ra đồng đô la Mỹ hoặc đồng tiền của nước sở tại. Thẩm quyền thu lệ phí đăng ký nuôi con nuôi: Ủy ban nhân dân cấp xã thu lệ phí đăng ký nuôi con nuôi trong nước; Cục Con nuôi thu lệ phí đăng ký nuôi con nuôi nước ngoài; cơ quan đại diện thu lệ phí đăng ký nuôi con nuôi tại cơ quan đại diện.
Đối tượng được miễn, giảm lệ phí đăng ký nuôi con nuôi: đối với trường hợp cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi; cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi; nhận trẻ em khuyết tật, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo được nhận đích danh làm con nuôi; giảm 50% mức lệ phí đăng ký nuôi con nuôi nước ngoài đối với trường hợp cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi; cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi; trường hợp nhận hai trẻ em trở lên là anh chị em ruột làm con nuôi, thì từ trẻ em thứ hai trở đi được giảm 50% mức lệ phí đăng ký nuôi con nuôi nước ngoài; miễn lệ phí đăng ký nuôi con nuôi đối với trường hợp đăng ký nuôi con nuôi thực tế, đăng ký lại việc nuôi con nuôi, công nhận và ghi chú việc nuôi con nuôi đã đăng ký ở nước ngoài.
Việc nuôi con nuôi đã phát sinh trên thực tế giữa công dân Việt Nam với nhau mà chưa đăng ký trước ngày 01 tháng 01 năm 2011, nếu đáp ứng các điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật Nuôi con nuôi, thì được đăng ký kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2011 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2015 tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi thường trú của cha mẹ nuôi và con nuôi.
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 08/5/2011; bãi bỏ các quy định tại Chương IV, từ điều 35 đến Điều 64, Điều 71 và các quy định khác về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002; Từ điều 25 đến Điều 28 và những quy định khác về trình tự, thủ tục đăng ký nuôi con nuôi tại Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005.