Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân nước ngoài hợp tác, đầu tư trong các lĩnh vực: Nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực khoa học tự nhiên; nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa và cơ điện tử, năng lượng nguyên tử và các dạng năng lượng mới, công nghệ vũ trụ, công nghệ cơ khí – chế tạo máy, các công nghệ bảo quản và chế biến nông sản, thực phẩm, công nghệ xử lý chất thải; đào tạo và phát triển nhân lực công nghệ cao; phát triển doanh nghiệp công nghệ cao tại Việt Nam; chuyển giao công nghệ và dịch vụ khoa học, công nghệ; lập hoặc đóng góp xây dựng các quỹ phát triển khoa học và công nghệ tại Việt Nam.
Các hình thức hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực khoa học công nghệ gồm: Viện trợ, tài trợ, biếu, hiến, tặng để hoạt động khoa học và công nghệ; hợp đồng khoa học và công nghệ; liên kết, tham gia hoạt động khoa học và công nghệ với nước ngoài (tham gia tổ chức, hội khoa học và công nghệ, tham gia hoạt động nghiên cứu, đào tạo, tư vấn, hội nghị, hội thảo khoa học và công nghệ…). Việc hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực khoa học và công nghệ phải lập thành hợp đồng hoặc văn bản thỏa thuận hợp tác.
Tổ chức, cá nhân Việt Nam được Nhà nước khuyến khích đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực khoa học và công nghệ làm thủ tục đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam về đầu tư ra nước ngoài. Ngoài các quy định của pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực khoa học và công nghệ phải đáp ứng 3 điều kiện: có dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực khoa học và công nghệ; được phép của Bộ Khoa học và Công nghệ; được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy chứng nhận đầu tư.
Tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư trong lĩnh vực khoa học và công nghệ tại Việt Nam là đầu tư trực tiếp (thành lập tổ chức, doanh nghiệp khoa học và công nghệ 100% vốn đầu tư nước ngoài, thành lập tổ chức, doanh nghiệp khoa học và công nghệ liên doanh giữa tổ chức, cá nhân Việt Nam với tổ chức, cá nhân nước ngoài) hoặc đầu tư gián tiếp. Việc thành lập tổ chức khoa học và công nghệ có vốn đầu tư nước ngoài phải đáp ứng các điều kiện: có Giấy chứng nhận đầu tư của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về đầu tư cấp; có điều lệ hoạt động, có đủ nhân lực khoa học và công nghệ có trình độ chuyên môn thuộc lĩnh vực hoạt động; có văn bản của UBND cấp tỉnh nơi đặt trụ sở chính chấp thuận việc thành lập tổ chức khoa học và công nghệ; bảo đảm yêu cầu về môi trường theo quy định của pháp luật. Tổ chức khoa học và công nghệ có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được phép hoạt động khoa học và công nghệ tại Việt Nam sau khi thực hiện thủ tục đăng ký hoạt động và được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động khoa học và công nghệ, nộp phí và lệ phí theo quy định của pháp luật. Doanh nghiệp khoa học và công nghệ có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thực hiện theo quy định của pháp luật Việt Nam về doanh nghiệp khoa học và công nghệ.
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/9/2010. Văn bản hợp tác với nước ngoài đã ký kết trước ngày Nghị định này có hiệu lực đang thực hiện vẫn tiếp tục thực hiện và chậm nhất đến ngày 01/6/2011, tổ chức, cá nhân hợp tác với nước ngoài phải gửi báo cáo tổng hợp về cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều 10 Nghị định này. Văn bản hợp tác với nước ngoài đã ký kết trước ngày Nghị định này có hiệu lực chưa thực hiện phải theo quy định của Nghị định này. Các dự án đầu tư thành lập tổ chức khoa học và công nghệ có vốn đầu tư nước ngoài đã được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đầu tư trước khi Nghị định này có hiệu lực phải tiến hành thủ tục xin cấp Giấy phép thành lập tổ chức khoa học và công nghệ.