Liên kết website

Tăng cường truyền thông dự thảo chính sách pháp luật cho người Việt Nam ở nước ngoài

15/12/2022

1. Sự cần thiết của công tác truyền thông dự thảo chính sách pháp luật
Trên cơ sở thực tiễn, kết hợp với việc thể chế hóa Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng về chủ trương “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng"; các định hướng lớn về công tác PBGDPL tại Kết luận số 80-KL/TW ngày 20/6/2020 của Ban Bí thư; các nhiệm vụ, giải pháp tại Quyết định số 1521/QĐ-TTg ngày 06/10/2020 của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định số 21/2021/QĐ-TTg ngày 21/6/2021 quy định về thành phần và nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng phối hợp PBGDPL, ngày 30/3/2022 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 407/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Tổ chức chức truyền thông chính sách có tác động lớn đến xã hội trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật giai đoạn 2022 – 2027”.
Việc ban hành Đề án có ý nghĩa rất quan trọng nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp trong quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay và yêu cầu đổi mới công tác PBGDPL - khâu đầu tiên của quá trình tổ chức thi hành, đưa pháp luật vào cuộc sống, trong đó bảo đảm gắn kết chặt chẽ với công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật.

TS. Lê Vệ Quốc - Vụ trưởng Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp trình bày nội dung về truyền thông chính sách, pháp luật cho người Việt Nam ở nước ngoài tại Hội nghị cung cấp thông tin cho báo chí về công tác nhân quyền và thông tin đối ngoại do Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức"

Từ góc độ người dân, truyền thông chính sách, pháp luật ngay từ khâu dự thảo văn bản được coi là phương thức cơ bản để người dân được "hưởng dụng quyền dân chủ của mình". Thông qua truyền thông dự thảo chính sách, nhiều phản ánh, ý kiến của người dân được ghi nhận kịp thời để hoàn thiện dự thảo, qua đó đáp ứng nhu cầu, mong muốn, nguyện vọng chính đáng của người dân. Chính vì vậy, việc truyền thông dự thảo chính sách, pháp luật không những nhằm đảm bảo thực hiện quyền làm chủ của người dân trong tham gia xây dựng pháp luật mà có ý nghĩa hết sức quan trọng trong củng cố, xây dựng niềm tin của Nhân dân vào Đảng, Nhà nước, góp phần thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng XIII về phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của Nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; tăng cường đồng thuận xã hội , đảm bảo quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013".
2. Khái niệm chính sách và các tác động của chính sách đối với xã hội
2.1. Khái niệm chính sách
Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) và quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 13/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định số 154/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ), “chính sách” được định nghĩa là “định hướng, giải pháp của Nhà nước để giải quyết vấn đề của thực tiễn nhằm đạt được mục tiêu nhất định”.
Theo khái niệm trên, một chính sách gồm 3 yếu tố cấu thành chính:
i.   Vấn đề thực tiễn cần giải quyết;
ii.  Định hướng, mục tiêu giải quyết vấn đề (hay còn gọi là mục tiêu của chính sách);
iii. Các giải pháp của Nhà nước (giải pháp thực hiện chính sách) để giải quyết vấn đề theo mục tiêu đã xác định.
2.2. Các tác động của chính sách đối với xã hội
Tác động của chính sách đối với xã hội được nhận diện trên 05 khía cạnh:
- Tác động về kinh tế là những tác động của chính sách đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân ở một hoặc một số nội dung về sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, môi trường đầu tư và kinh doanh, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân, cơ cấu phát triển kinh tế của quốc gia hoặc địa phương, chi tiêu công, đầu tư công và các vấn đề khác có liên quan đến kinh tế;
- Tác động về xã hội là những tác động của chính sách đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân ở một hoặc một số nội dung về dân số, việc làm, tài sản, sức khỏe, môi trường, y tế, giáo dục, đi lại, giảm nghèo, giá trị văn hóa truyền thống, gắn kết cộng đồng, xã hội, chính sách dân tộc (nếu có) và các vấn đề khác có liên quan đến xã hội;
- Tác động về giới là những tác động của chính sách đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân ở khía cạnh kinh tế, xã hội liên quan đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới;
- Tác động của thủ tục hành chính là những tác động của chính sách đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến việc tuân thủ các thủ tục hành chính;
- Tác động đối với hệ thống pháp luật là những tác động của chính sách đối với hệ thống pháp luật ở các khía cạnh tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật; khả năng thi hành và tuân thủ pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân; khả năng thi hành và tuân thủ của Việt Nam đối với các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
2.3. Các chính sách lớn trong quá trình xây dựng VBQPPL cần được truyền thông theo quy định tại Quyết định số 407/QĐ-TTg
Truyền thông chính sách được hiểu là một phần trong hoạt động của các cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật nhằm đưa thông tin về các chính sách đến người dân. Đồng thời, đây là kênh thông tin ngược để các cơ quan này lấy ý kiến các đối tượng chịu sự tác động của chính sách khi xây dựng các loại chính sách mới hay điều chỉnh chính sách hiện tại, tạo ra sự đồng thuận xã hội.
Trên cơ sở quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Nghị định số 34/2016/NĐ-CP và quy định của Quyết định số 407/QĐ-TTg, trong quá trình xây dựng VBQPPL, cơ quan chủ trì soạn thảo cần lưu ý một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, xác định các chính sách lớn cần được truyền thông dựa trên các tiêu chí đã được quy định tại Quyết định số 407/QĐ-TTg:
+ Một là: các chính sách được ban hành trong các văn bản quy phạm pháp luật phải thực hiện quy trình lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trước khi tiến hành soạn thảo được quy định tại Điều 4, Nghị định số 34/NĐ-CP gồm các trường hợp:
1. Luật, pháp lệnh.
2. Nghị quyết của Quốc hội quy định tại điểm b và c khoản 2 Điều 15 của Luật; nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định tại điểm b khoản 2 Điều 16 của Luật.
3. Nghị định của Chính phủ quy định tại khoản 3 Điều 19 của Luật
4. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định tại khoản 4 Điều 27 của Luật.
Như vậy, với quy định tại Điều 4 ngoài luật, pháp lệnh do Quốc hội ban hành thì các văn bản sau phải lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể:
- Đối với loại Nghị quyết của Quốc hội quy định tại điểm b và c khoản 2 Điều 15 của Luật,  Nghị quyết ban hành để quy định:
“b) Thực hiện thí điểm một số chính sách mới thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội nhưng chưa có luật điều chỉnh hoặc khác với quy định của luật hiện hành;
c) Tạm ngưng hoặc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần luật, nghị quyết của Quốc hội đáp ứng các yêu cầu cấp bách về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quyền con người, quyền công dân;”
- Đối với loại Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định tại điểm b khoản 2 Điều 16 của Luật, được ban hành để quy định:
“b) Tạm ngưng hoặc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội đáp ứng các yêu cầu cấp bách về phát triển kinh tế - xã hội;”
- Đối với loại Nghị định của Chính phủ quy định tại khoản 3 Điều 19 của Luật được ban hành để quy định:
“Vấn đề cần thiết thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Trước khi ban hành nghị định này phải được sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội”
- Đối với loại Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định tại khoản 4 Điều 27 của Luật được ban hành để quy định:
Biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của địa phương
+ Hai là: các chính sách này tác động trực tiếp làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ của người dân, tổ chức, doanh nghiệp. Tác động này được xác định trên 05 khía cạnh là kinh tế, xã hội, giới, thủ tục hành chính và hệ thống pháp luật. Chính sách có thể tác động ở một, một số hoặc tất cả các khía cạnh.
Các lĩnh vực pháp luật mà thông thường, chính sách sẽ tác động trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của người dân, tổ chức, doanh nghiệp là: thuế, hải quan; đất đai, nhà ở, kinh doanh bất động sản; lao động, an sinh xã hội; đầu tư, kinh doanh; giáo dục và đào tạo; y tế; lĩnh vực pháp luật về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (tôn giáo, biểu tình, hội, xuất, nhập cảnh, cư trú, quốc tịch, hộ tịch); luật sư, công chứng…
+ Ba là: các vấn đề chính sách được xác định là những vấn đề khó, nhạy cảm, dư luận xã hội quan tâm hoặc có nhiều ý kiến khác nhau về nội dung dự thảo chính sách. Đây chính là tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá mức độ quan trọng của chính sách. Bởi lẽ, mục đích của truyền thông không chỉ là cung cấp thông tin, tạo điều kiện, thu hút người dân và những bên liên quan tham gia vào quy trình xây dựng chính sách mà quan trọng hơn đó là tạo được sự đồng thuận của tất cả các đối tượng đối với chính sách được nhà nước đưa ra truyền thông. Vì vậy, đối với những chính sách còn nhiều ý kiến khác nhau thì việc truyền thông từ sớm từ xa càng quan trọng. Thông qua hoạt động truyền thông, cơ quan chủ trì soạn thảo sẽ được lắng nghe ý kiến phản hồi để từ đó kịp thời bổ sung, điều chỉnh, xây dựng chiến lược, kế hoạch cũng như nội dung phù hợp để tạo được sự đồng thuận của xã hội trong hoạch định chính sách.
+ Bốn là: về phạm vi tác động, căn cứ vào nội dung, chính sách cần truyền thông là những chính sách có tác động trên phạm vi cả nước hoặc trên phạm vi toàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Thông thường, phạm vi tác động của chính sách là cả nước, tuy nhiên, cũng có những chính sách có phạm vi tác động chỉ ở một tỉnh, thành phố (ví dụ như chính sách trong các dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về chính sách đặc thù cho một số tỉnh, thành phố).
Thứ hai, về thời điểm truyền thông dự thảo chính sách: được thực hiện ngay từ khi cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật lấy ý kiến đối với đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Điều 36). Đó là khi cơ quan chủ trì soạn thảo quyết định việc đăng tải dự thảo hồ sơ đề nghị xây dựng văn bản QPPL lên Cổng thông tin điện tử của cơ quan đó và lấy ý kiến bằng văn bản tới các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan. Đây là thời điểm thích hợp nhất để truyền thông chính sách vì để được chính thức đăng tải lên Cổng thông tin điện tử của cơ quan chủ trì soạn thảo lấy ý kiến rộng rãi tới các đối tượng chịu sự tác động thì các chính sách này đã được cơ quan chủ trì soạn thảo xây dựng trên cơ sở nghiên cứu thấu đáo, tổng kết trên cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn, đó là những vướng mắc, tồn tại và hạn chế trong quá trình thực hiện hoặc những vấn đề phát sinh trong thực tế cần phải điều chỉnh, thay đổi và bổ sung và được tổng hợp ý kiến góp ý từ nhiều cuộc họp, hội thảo, của các chuyên gia thì mới đủ chín muồi để lấy ý kiến rộng rãi của dư luận.
3. Yêu cầu tăng cường công tác thông tin, truyền thông dự thảo chính sách pháp luật cho người Việt Nam ở nước ngoài
Trong những năm qua, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của mình. Điều 18 Hiến pháp nước Cộng hoà XHCNVN năm 2013 quy định: Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước.
Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đến nay có khoảng 5,3 triệu người sinh sống, làm việc trên 130 quốc gia và vùng lãnh thổ; đại bộ phận đồng bào đã có địa vị pháp lý và cuộc sống ổn định, hội nhập sâu rộng vào xã hội sở tại. Dù ở bất cứ nơi đâu, đồng bào ta vẫn luôn hướng về Tổ quốc, gắn bó máu thịt với cội nguồn dân tộc, là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam; là nguồn lực quan trọng đóng góp cho sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc. Với cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao, niềm tin của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cũng ngày càng được củng cố. Để thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, thời gian tới, công tác người Việt Nam ở nước ngoài cần tiếp tục được triển khai toàn diện và mạnh mẽ hơn, qua đó phát huy nguồn lực to lớn, tinh thần yêu nước của đồng bào ta ở nước ngoài hướng về quê hương, đất nước; nhận thức và hành động đúng đắn, phù hợp với lợi ích quốc gia - dân tộc; đồng thời, thể hiện rõ hơn tình cảm và trách nhiệm của Đảng, Nhà nước trong việc chăm lo cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Điều này đã được xác định cụ thể tại Kết luận số 12-KL/TW ngày 12/8/2021 của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới. Theo đó, một trong những giải pháp quan trọng mà Kết luận số 12-KL/TW đề ra là đổi mới nội dung, phương thức và tư duy về công tác tuyên truyền, thông tin đối ngoại. Kịp thời thông tin về tình hình đất nước và chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta” tới cộng đồng NVNONN và “hoàn thiện cơ chế tiếp nhận, xử lý, phản hồi, vận dụng và phát huy hiệu quả các sáng kiến, ý kiến đóng góp của các chuyên gia, đội ngũ trí thức, cộng đồng doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài.”
Nội dung thông tin truyền thông cho người người Việt Nam ở nước ngoài các chính sách, quan điểm của Đảng, pháp luật thực định của nhà nước cũng như các dự thảo chính sách pháp luật liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người người Việt Nam ở nước ngoài, qua đó thể hiện phương châm “đi trước mở đường”, góp phần quan trọng giúp đồng bào ta ở nước ngoài hiểu rõ, hiểu đúng về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Ngược lại, thông qua việc tham gia đóng ý kiến, phản hồi đối với các dự thảo chính sách pháp luật liên quan, người người Việt Nam ở nước ngoài đã thông tin, phản ánh những vướng mắc, khó khăn, tâm tư, nguyện vọng của bà con kiều bào ta tới với Đảng, Nhà nước và nhân dân trong nước, góp phần gắn kết chặt chẽ khối đại đoàn kết toàn dân, từ đó làm cho kiều bào ta càng ý thức sâu sắc hơn về trách nhiệm của mình đối với quê hương, đất nước, đồng thời giúp sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách, thể chế. Chính vì vậy, truyền thông dự thảo chính sách pháp luật cho cộng đồng người người Việt Nam ở nước ngoài  được coi là cách thức, giải pháp hữu hiệu để thực hiện mục tiêu mà Kết luận số 12 nêu trên đã xác định.
  4. Định hướng, giải pháp tăng cường truyền thông về dự thảo chính sách pháp luật cho người Việt Nam ở nước ngoài trong thời gian tới
Để tăng cường truyền thông dự thảo chính sách, pháp luật cho người người Việt Nam ở nước ngoài theo tinh thần của Kết luận số 12-KL/TW của Bộ Chính trị và Quyết định số 407/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, cần triển khai thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ và giải pháp sau đây:
(i) Thống nhất nhận thức về vị trí, tầm quan trọng của công tác truyền thông dự thảo chính sách pháp luật cho người người Việt Nam ở nước ngoài; xác định đây là trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành, trong đó các cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản chịu trách nhiệm chính để chủ động có kế hoạch thực hiện truyền thông dự thảo chính sách pháp luật. Để các dự thảo chính sách có tác động lớn đến xã hội được truyền thông đến cộng đồng người người Việt Nam ở nước ngoài, cơ quan chủ trì soạn thảo cần xây dựng kế hoạch và tổ chức truyền thông về nội dung dự thảo chính sách theo quy định tại Quyết định số 407 đến người người Việt Nam ở nước ngoài , trong đó tập trung vào các dự thảo chính sách pháp luật về quyền, nghĩa vụ của công dân Việt Nam nói chung, người Việt Nam ở nước ngoài nói riêng; nhất là các lĩnh vực pháp luật liên quan thiết thực đến người VNONN như: hộ tịch, quốc tịch, chứng thực; xuất cảnh, nhập cảnh; pháp luật về đất đai, xây dựng, nhà ở; chính sách về bảo hộ của nhà nước Việt Nam đối với công dân Việt Nam tại nước ngoài cũng như chính sách khuyến khích, ưu đãi, thu hút đầu tư của Nhà nước Việt Nam trong lĩnh vực thu hút chuyên gia trí thức, kiều bào; lĩnh vực đầu tư, kinh doanh; các Điều ước quốc tế liên quan…
(ii) Phát huy vai trò của Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật các cấp trong chỉ đạo, hướng dẫn về truyền thông dự thảo chính sách pháp luật liên quan đến công tác người Việt Nam ở nước ngoài. Trong đó, vai trò thành viên Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luậ trung ương là đại diện lãnh đạo của Bộ Ngoại giao đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị chức năng trực thuộc ở nước ngoài phối hợp thực hiện nhiệm vụ này.
(iii) Xác định hoạt động truyền thông dự thảo chính sách cho đối tượng người người Việt Nam ở nước ngoài là hoạt động có tính chất đặc thù, do vậy cần đa dạng hóa hoạt động truyền thông dự thảo chính sách pháp luật cho người VNONN bằng các hình thức phù hợp, hiệu quả như: xây dựng tài liệu truyền thông dự thảo chính sách pháp luật ngắn gọn, sinh động, dễ hiểu, được dịch ra tiếng nước ngoài phổ thông; tổ chức truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng chuyên biệt dành cho người Việt Nam ở nước ngoài (trọng tâm là kênh VTV4 Đài Truyền hình Việt Nam; kênh thông tin đối ngoại của Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam…); tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số thông qua Cổng/Trang thông tin điện tử của cơ quan, đơn vị, các ứng dụng mạng xã hội, trong đó, hệ thống các thông tin nội bộ, Cổng/trang thông tin của các cơ quan đại diện nước Cộng hoà XHCNVN ở nước ngoài cũng có vai trò hết sức quan trọng; lồng ghép trong các diễn đàn, gặp mặt kiều bào Việt Nam ở nước ngoài…
(iv) Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ, tích cực từ phía các cơ quan thông tin, truyền thông với các cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản, cơ quan ngoại giao trong truyền thông dự thảo chính sách cho người Việt Nam ở nước ngoài để bảo đảm thông tin đa chiều, khách quan, chính thức, chính xác và đầy đủ. Có như vậy mới góp phần nâng cao chất lượng của văn bản pháp luật cũng như công tác người Việt Nam ở nước ngoài.
(v) Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực, nghiệp vụ, cung cấp tài liệu kỹ năng về tổ chức truyền thông chính sách nói chung, cho người Việt Nam ở nước ngoài nói riêng cho đội ngũ phóng viên, biên tập viên, cán bộ quản lý báo chí để tham gia triển khai thực hiện nhiệm vụ một cách có hiệu quả. Có cơ chế cụ thể để cơ quan báo chí phối hợp, cùng tham gia thực hiện truyền thông chính sách, trong đó có việc đặt hàng, giao nhiệm vụ truyền thông chính sách cho cơ quan báo chí thực hiện… để bảo đảm hoạt động này được triển khai ổn định, bền vững.
Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật 
Các tin đã đưa ngày: