Theo dự thảo Thông tư, người nộp thuế thuộc đối tượng thực hiện đăng ký thuế trực tiếp đối với cơ quan thuế, bao gồm:
- Doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực bảo hiểm, kế toán, kiểm toán, luật sư, công chứng hoặc các lĩnh vực chuyên ngành khác không phải đăng ký doanh nghiệp qua cơ quan đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật chuyên ngành (sau đây gọi là tổ chức kinh tế).
- Đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế của lực lượng vũ trang, tổ chức kinh tế của các tổ chức chính trị, chính trị-xã hội, xã hội nghề nghiệp hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật nhưng không phải đăng ký doanh nghiệp qua cơ quan đăng ký kinh doanh; tổ chức của các nước có chung đường biên giới đất liền với Việt Nam thực hiện hoạt động mua, bán, trao đổi hàng hóa tại chợ biên giới, chợ cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu; văn phòng đại diện của tổ chức nước ngoài tại Việt Nam; tổ hợp tác được thành lập và tổ chức hoạt động theo quy định của
Bộ luật dân sự 2015 nhưng không thuộc trường hợp phải đăng ký kinh doanh qua cơ quan đăng ký kinh doanh theo quy định của
Luật Hợp tác xã (sau đây gọi là tổ chức kinh tế).
- Tổ chức được thành lập bởi cơ quan có thẩm quyền không có hoạt động sản xuất, kinh doanh nhưng phát sinh nghĩa vụ với ngân sách nhà nước (sau đây gọi là tổ chức khác).
- Tổ chức, cá nhân nước ngoài và tổ chức ở Việt Nam sử dụng tiền viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại của nước ngoài mua hàng hoá, dịch vụ có thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam để viện trợ không hoàn lại, viện trợ nhân đạo; các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam thuộc đối tượng được hoàn thuế giá trị gia tăng đối với đối tượng hưởng ưu đãi miễn trừ ngoại giao; Chủ dự án ODA thuộc diện được hoàn thuế giá trị gia tăng, Văn phòng đại diện nhà tài trợ dự án ODA, tổ chức do phía nhà tài trợ nước ngoài chỉ định quản lý chương trình, dự án ODA không hoàn lại (sau đây gọi là tổ chức khác).
- Tổ chức nước ngoài không có tư cách pháp nhân tại Việt Nam, cá nhân nước ngoài hành nghề độc lập kinh doanh tại Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam có thu nhập phát sinh tại Việt Nam hoặc có phát sinh nghĩa vụ thuế tại Việt Nam (sau đây gọi là nhà thầu nước ngoài, nhà thầu phụ nước ngoài).
- Nhà cung cấp ở nước ngoài là tổ chức không có cơ sở thường trú tại Việt Nam hoặc là cá nhân không cư trú có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác với tổ chức, cá nhân ở Việt Nam (sau đây gọi là nhà cung cấp ở nước ngoài).
- Doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức kinh tế, tổ chức khác và cá nhân có trách nhiệm khấu trừ và nộp thuế thay cho người nộp thuế khác phải kê khai và xác định nghĩa vụ thuế riêng so với nghĩa vụ của người nộp thuế theo quy định của pháp luật về quản lý thuế (trừ cơ quan chỉ trả thu nhập khi khấu trừ, nộp thay thuế thu nhập cá nhân); Ngân hàng thương mại, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán hoặc tổ chức, cá nhân được nhà cung cấp ở nước ngoài ủy quyền có trách nhiệm kê khai, khấu trừ và nộp thuế thay cho nhà cung cấp ở nước ngoài (sau đây gọi là Tổ chức, cá nhân khấu trừ nộp thay). Tổ chức chỉ trà thu nhập khi khấu trừ, nộp thay thuế thu nhập cá nhân sử dụng mã số thuế đã cấp để khai, nộp thuế thu nhập cá nhân khấu trừ, nộp thay.
- Người điều hành, công ty điều hành chung, doanh nghiệp liên doanh, tổ chức được Chính phủ Việt Nam giao nhiệm vụ tiếp nhận phần được chia của Việt Nam thuộc các mô dầu khí tại vùng chồng lấn, nhà thầu, nhà đầu tư tham gia hợp đồng dầu khí, công ty mẹ - Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đại diện nước chủ nhà nhận phần lãi được chia từ các hợp đồng dầu khí.
- Hộ gia đình, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp luật nhưng không thuộc trường hợp phải đăng ký kinh doanh qua cơ quan đăng ký kinh doanh theo quy định của Chính phủ về hộ kinh doanh, bao gồm cả cá nhân cư trú có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh trên nền tảng số, cá nhân của các nước có chung đường biên giới đất liền với Việt Nam thực hiện hoạt động mua, bán, trao đổi hàng hóa tại chợ biên giới, chợ cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu (sau đây gọi là hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh đăng ký thuế trực tiếp với cơ quan thuế).
- Cá nhân có thu nhập thuộc diện chịu thuế thu nhập cá nhân (trừ cá nhân kinh doanh).
- Cá nhân là người phụ thuộc theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập cá nhân.
- Tổ chức, cá nhân được cơ quan thuế uỷ nhiệm thu.
- Tổ chức, hộ gia đình và cá nhân khác có nghĩa vụ với ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó dự thảo Thông tư còn quy định: Hệ thống các ứng dụng của ngành thuế được nâng cấp để đáp ứng việc người nộp thuế sử dụng số định danh cá nhân thay cho mã số thuế xuyên suốt trong các dịch vụ với cơ quan thuế từ ngày 01/7/2025.
Trường hợp hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh, cá nhân khác thuộc trường hợp sử dụng số định danh cá nhân thay cho mã số thuế theo quy định tại Khoản 3 Điều 5 Thông tư này đã được cấp mã số thuế trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành và thông tin đăng ký thuế của đại diện hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh, cá nhân khớp đúng với thông tin của cá nhân được lưu trữ trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư thì hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh, cá nhân được sử dụng số định danh cá nhân thay cho mã số thuế khi thực hiện các thủ tục về thuế kể từ ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành, bao gồm cả việc điều chỉnh, bổ sung nghĩa vụ thuế phát sinh theo mã số thuế đã cấp trước đó. Đồng thời, cơ quan thuế theo dõi, quản lý toàn bộ dữ liệu của hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh, cá nhân, dữ liệu đăng ký giảm trừ gia cảnh của người phụ thuộc bằng số định danh cá nhân.
Trường hợp hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh, cá nhân khác đã được cấp mã số thuế trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành, nhưng thông tin đăng ký thuế của đại diện hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh, cá nhân khác không khớp đúng với thông tin của cá nhân được lưu trữ trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư hoặc không đầy đủ thì hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh, cá nhân khác tiếp tục sử dụng mã số thuế đã được cấp đến hết ngày 31/12/2024. Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh, cá nhân khác phải thực hiện điều chỉnh thông tin với cơ quan thuế theo quy định tại Khoản 1, khoản 4 Điều 25 Thông tư này để chuyển sang sử dụng số định danh cá nhân thay cho mã số thuế đã được cấp.
Trường hợp cá nhân đã được cấp nhiều hơn 01 (một) mã số thuế, dữ liệu thuế của người nộp thuế được hợp nhất theo số định danh cá nhân. Cá nhân thực hiện tra cứu thông tin đăng ký thuế đã đối chiếu khớp đúng với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trên Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế tại địa chỉ:
https://www.gdt.gov.vn, hoặc trên tài khoản giao dịch thuế điện tử của cá nhân (nếu cá nhân đã được cấp tài khoản giao dịch thuế điện tử với cơ quan thuế).
Trường hợp cá nhân là người có quốc tịch Việt Nam chưa được cấp số định danh cá nhân thì cá nhân phải liên hệ với cơ quan Công an cấp xã để thu thập thông tin vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và cấp số định danh cá nhân để được sử dụng số định danh cá nhân thay cho mã số thuế khi bắt đầu hoạt động kinh doanh hoặc có phát sinh nghĩa vụ với ngân sách nhà nước.