Tham gia đối thoại trực tuyến là hai vị khách mời: Ông Uông Ngọc Thuẩn - Phó Vụ trưởng Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp; Bà Phạm Thị Hồng - Phó Trưởng ban, Ban Dân chủ - Pháp luật, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Xin ông Uông Ngọc Thuẩn - Phó Vụ trưởng Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật cho biết ý nghĩa, vai trò của hòa giải ở cơ sở trong đời sống xã hội?
Ông Uông Ngọc Thuẩn: Hòa giải ở cơ sở có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, có thể nói đây là một phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả, thể hiện trên những mặt sau:
- Là một phương thức giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn, vi phạm pháp luật bên cạnh các phương thức giải quyết tranh chấp khác như Tòa án, trọng tài… Công tác hòa giải ở cơ sở giúp các bên giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng, kịp thời và triệt để; tiết kiệm chi phí, ít tốn kém về thời gian và nhân lực. Qua đó, góp phần giữ gìn, duy trì đoàn kết trong nội bộ nhân dân; củng cố, phát huy tình cảm và đạo lý truyền thống tốt đẹp trong gia đình, cộng đồng; phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư.
- Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý xã hội. Công tác hòa giải ở cơ sở thể hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thông qua đó nhân dân, xã hội trực tiếp tham gia quản lý mọi mặt đời sống xã hội.
Bằng hoạt động hòa giải ở cơ sở, các bên tranh chấp đã tự mình giải quyết tranh chấp, xung đột của mình trên cơ sở mong muốn, hài hòa lợi ích của các bên. Hòa giải viên là người hoạt động vì lợi ích cộng đồng, họ không đặt mục tiêu lợi nhuận; công việc của hòa giải viên là hàn gắn những mâu thuẫn nảy sinh trong gia đình, dòng họ, tranh chấp giữa hàng xóm láng giềng với nhau; để từ đó không cần đến sự can thiệp của Nhà nước đối với những công việc mà xã hội có thể tự làm được. Điều này thể hiện cao quyền làm chủ của nhân dân, nhất là trong bối cảnh tiến tới xây dựng Nhà nước kiến tạo.
- Hoạt động hòa giải góp phần tích cực trong việc hạn chế đơn thư khiếu nại, tố cáo, nhất là khiếu nại vượt cấp, kéo dài.
Kết quả hòa giải thành ở cơ sở phần lớn được các bên tự nguyện thi hành, bởi nội dung thỏa thuận khi hòa giải thành là ý chí của các bên tranh chấp, các bên hài lòng với giải pháp đã thống nhất nên thường là tự giác thi hành một cách nhanh chóng (đa số các trường hợp không cần tòa án công nhận). Vì thế, các mâu thuẫn được triệt tiêu hoàn toàn nên không có khiếu kiện (bao gồm cả khiếu kiện vượt cấp, khiếu kiện kéo dài). Thực tế cho thấy, mọi vấn đề đều nảy sinh từ cơ sở và ở đâu làm tốt công tác hòa giải ở cơ sở thì ở đó an toàn chính trị, an ninh, trật tự xã hội được giữ vững.
- Hoạt động hòa giải ở cơ sở góp phần phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân.
Bằng việc vận dụng những quy định pháp luật để giải thích, phân tích, hướng dẫn các bên giải quyết tranh chấp, hòa giải viên đã giúp họ hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình để từ đó xử sự phù hợp với quy định pháp luật, chuẩn mực đạo đức xã hội.
Luật Hòa giải ở cơ sở đã đi vào thực tế 06 năm. Ông Uông Ngọc Thuẩn đánh giá như thế nào về kết quả thực hiện Luật trong 06 năm qua?
Ông Uông Ngọc Thuẩn: Thứ nhất, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức về hòa giải ở cơ sở, Luật Hòa giải ở cơ sở và các văn bản hướng dẫn thi hành được quan tâm triển khai kịp thời, sâu rộng, hiệu quả Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức về hòa giải ở cơ sở, Luật Hòa giải ở cơ sở và các văn bản hướng dẫn thi hành được Bộ Tư pháp, các bộ, ngành, UBND, các sở, ban, ngành, đoàn thể các cấp của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Ủy ban MTTQVN và các tổ chức thành viên của Mặt trận các cấp, các tổ chức, đoàn thể khác của nhân dân đẩy mạnh với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, hiệu quả.
Thứ hai, quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở ngày càng đi vào chiều sâu, có trọng tâm, trọng điểm, tạo điều kiện tốt cho tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở được kiện toàn và phát triển Thể chế về công tác hòa giải ở cơ sở đã tương đối đầy đủ, toàn diện, chặt chẽ, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động hòa giải ở cơ sở (có Luật Hòa giải ở cơ sở, Nghị định của Chính phủ; Nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ và Ủy ban Trung ương MTTQVN; Thông tư liên tịch và nhiều nghị quyết, quyết định về triển khai công tác hòa giải ở cơ sở do địa phương ban hành).
Nguồn nhân lực thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở được quan tâm xây dựng, thường xuyên được củng cố, kiện toàn từ trung ương đến địa phương. Việc đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất cho công tác hòa giải ở cơ sở đã được các địa phương quan tâm. Công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết, khen thưởng được thực hiện thường xuyên.
Thứ ba, tổ hòa giải và đội ngũ hòa giải viên được kiện toàn và tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Một số mô hình điểm có hiệu quả trong công tác hòa giải ở cơ sở được xây dựng và từng bước được nhân rộng Tổ hòa giải được thành lập tại hầu hết các thôn, tổ dân phố trên cả nước. (Tính đến hết tháng 12/2019, cả nước có 96.896 tổ hòa giải với 601.312 hòa giải viên).
Nhìn chung, các tổ hòa giải có đầy đủ các thành phần thuộc các tổ chức, đoàn thể tham gia. Hòa giải viên ở cơ sở được bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ, kỹ năng hòa giải thông qua các lớp tập huấn do cơ quan tư pháp cấp tỉnh, cấp huyện tổ chức; được trang bị các tài liệu phục vụ cho hoạt động hòa giải. Bộ Tư pháp đã ban hành Chương trình khung và biên soạn, phát hành Bộ tài liệu bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho hòa giải viên; các tài liệu hỏi đáp kiến thức pháp luật, tình huống hòa giải mẫu, tiểu phẩm hòa giải ở cơ sở…nhằm từng bước nâng cao năng lực cho đội ngũ này. Để thúc đẩy công tác hòa giải ở cơ sở, động viên, tôn vinh, nâng cao năng lực cho đội ngũ hòa giải viên, các hội thi hòa giải viên giỏi đã và sẽ tiếp tục được tổ chức.
Năm 2016, Bộ Tư pháp đã chủ trì tổ chức thành công Hội thi hòa giải viên giỏi toàn quốc lần thứ III, tạo sức lan tỏa rộng, thu hút đông đảo hòa giải viên ở cơ sở trên cả nước tham dự và nhận được sự theo dõi, cổ vũ nhiệt tình của quần chúng nhân dân. Bên cạnh đó, nhiều địa phương đã tổ chức làm điểm các mô hình tổ hòa giải ở cơ sở, như Lạng Sơn với mô hình “Tổ hòa giải điển hình tiên tiến”; thành phố Hà Nội với mô hình “Tổ hòa giải 5 tốt”; Quảng Bình với mô hình giao ban định kỳ giữa các tổ hòa giải ở cơ sở với Chủ tịch UBND cấp xã... đã mang lại những giá trị tích cực cho sự phát triển của công tác hòa giải ở cơ sở.
Thứ tư, hòa giải ở cơ sở ngày càng khẳng định vị trí, vai trò là một cơ chế giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp rất nhân văn, kịp thời, hiệu quả, bền vững; được người dân quan tâm, sử dụng ngày càng nhiều. Hòa giải ở cơ sở là hoạt động tự quản của nhân dân được tiến hành trên cơ sở các bên tự nguyện, tự thỏa thuận giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp “có lý, có tình” với việc vận dụng linh hoạt, hài hòa các quy định pháp luật, các chuẩn mực đạo đức, văn hóa, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc. Kết quả hòa giải thành được các bên tự giác thực hiện mà không cần một quy trình tố tụng hoặc bất kỳ sự tác động của sức mạnh cưỡng chế nào.
Thông qua hòa giải ở cơ sở, các mối quan hệ gia đình, cộng đồng, xã hội được duy trì ổn định, thống nhất, hài hòa; khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Người dân ngày càng tin tưởng, quan tâm, sử dụng nhiều hơn và tích cực tham gia công tác hòa giải ở cơ sở.
Hàng năm, các hòa giải viên trên cả nước đã phát hiện, tiếp nhận và tiến hành hòa giải hàng trăm nghìn vụ việc; tỷ lệ hòa giải thành khá cao. Từ khi Luật Hòa giải ở cơ sở có hiệu lực (01/01/2014) đến 31/12/2019, chỉ tính riêng các vụ việc được tiếp nhận, thống kê, ghi chép đầy đủ, các tổ hòa giải ở cơ sở trên cả nước đã tiến hành hòa giải 875.573 vụ, việc, trong đó hòa giải thành 707.945 vụ, việc (đạt tỷ lệ 80,6%).
Trung bình mỗi năm, các tổ hòa giải ở cơ sở trên phạm vi cả nước đã tiếp nhận trên 120.000 vụ, việc và hòa giải thành trên 100.000 vụ, việc. Tỷ lệ hòa giải thành tăng dần theo từng năm. (Nếu năm 2014, tỷ lệ hòa giải thành cả nước là 78,8% thì đến năm 2019 tỷ lệ này là 82,9%. Năm 2019, một số tỉnh có tỷ lệ hòa giải thành cao trên 90% như các tỉnh: An Giang, Long An, Hà Nam, Khánh Hòa, Yên Bái, Hậu Giang… ).
Đối với hệ thống MTTQVN, xin bà Phạm Thị Hồng cho biết kết quả thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở trong 06 năm qua thế nào?
Bà Phạm Thị Hồng: Thực hiện Nghị quyết Trung ương 7/NQTW ngày 17/11/1993 của Bộ Chính trị và các quy định của pháp luật về Hòa giải ở cơ sở (Luật Hòa giải cơ sở 2013; Nghị định 15/2014/NĐ-CP hướng dẫn Luật hòa giải ở cơ sở; Nghị quyết Liên tịch 01/2014/NQLT/CP-UBTWMTTQVN hướng dẫn phối hợp thực hiện một số quy định của pháp luật về hòa giải cơ sở). Thời gian qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận các cấp đã triển khai thực hiện có hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở như:
Công tác phổ biến, vận động Nhân dân chấp hành pháp luật, giám sát thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở: Tổ chức hội nghị tuyên truyền; Tổ chức tập huấn chuyên sâu; In ấn tờ rơi, tờ gấp; mở chuyên trang, chuyên mục về công tác hòa giải ở cơ sở; Tuyên truyền lồng ghép trong cuộc vận động do Mặt trận chủ trì và phát động như: cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam"; "Cả nước chung tay vì người nghèo"…
Nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước triển khai có hiệu quả công tác tuyên truyền pháp luật về Hòa giải ở cơ sở, điển hình như: An Giang: tổ chức 115 đợt tập huấn nghiệp vụ cho 14.920 lượt Hòa giải viên tham gia; Tuyên truyền 22 Hội nghị, in ấn cấp phát 1.500 cuốn tài liệu hỏi đáp về công tác Hòa giải; Khánh Hòa: tổ chức 1850 hội nghị tuyên truyền; với 106.000 người tham dự, biên soạn và phát hành 1020 cuốn sổ tay pháp luật về hòa giải ở cơ sở; tái bản 56.200 sách bỏ túi, tờ gấp cho Hòa giải viên; cấp phát 6.100 cuốn tài liệu, 500 cuốn sách về các lĩnh vực dân sự, hôn nhân gia đình, hòa giải ở cơ sở…; Nghệ An: MTTQ các cấp đã phối hợp tổ chức 2381 hội nghị, với 1820 văn bản, thu hút được 875.513 lượt người tham dự;
Tập trung củng cố kiện toàn tổ chức và hoạt động của Tổ hòa giải, hòa giải viên: Tổng số tổ hòa giải: 96.896; Tổng số hòa giải viên: 601.312, trong đó: Cán bộ MT tham gia hòa giải viên: 128.091, hội LHPN tham gia hòa giải viên: 107.068. Còn lại (cựu chiến binh, Đoàn thanh niên, già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng).
Phối hợp với cơ quan tư pháp cùng cấp trong việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở: Hướng dẫn công tác hòa giải: Chủ trì tổ chức kiểm tra; Tham gia đoàn kiểm tra, giám sát.
Sau 6 năm triển khai thực hiện đã tiếp nhận tổng số 875.312 vụ việc, trong đó hòa giải thành: 707.945 vụ việc, đạt tỷ lệ 80,9%; hòa giải không thành: 167.367vụ việc. Nhiều địa phương có tỷ lệ hòa giải thành rất cao như Hậu Giang; Khánh Hòa...
Đây là một kết quả đáng ghi nhận của công tác hòa giải ở cơ sở, nhiều tranh chấp, mâu thuẫn trong sinh hoạt, tranh chấp trong đất đai được giải quyết ngay từ cơ sở, góp phần tăng cường sự đoàn kết, gắn bó trong nhân dân. Đồng thời, thông qua hoạt động hoà giải ở cơ sở, nhân dân hiểu rõ hơn các chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm, hạn chế những hành vi vi phạm pháp luật, giữ gìn an ninh trật tự an toàn xã hội, tạo đồng thuận trong xã hội thúc đẩy phát triển kinh tế.
Xin bà cho biết thêm, những thuận lợi, khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam?
Bà Phạm Thị Hồng: Về thuận lợi, cấp ủy nhiều nơi đã quan tâm, chỉ đạo, hướng dẫn việc thực hiện công tác Hòa giải ở cơ sở, thường xuyên nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, tình hình Nhân dân trên địa bàn;
Công tác phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận với cơ quan tư pháp trong việc triển khai thực hiện Luật hòa giải ở cơ sở có những chuyển biến tích cực trong củng cố, kiện toàn tổ chức và hoạt động của Tổ hòa giải, việc tổ chức hội nghị tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ cho đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở;
Mạng lưới Tổ hoà giải được củng cố, mở rộng, thu hút được nhiều thành phần, nhiều lực lượng tham gia. Số lượng, chất lượng của đội ngũ Hòa giải viên từng bước được đảm bảo, hầu hết Hòa giải viên đều nêu cao tinh thần tự nguyện, nhiệt tình, trách nhiệm, nhiều Hòa giải viên vững về chuyên môn, nghiệp vụ, thành thạo về kỹ năng hòa giải ở cơ sở;
Mặt trận và các tổ chức thành viên của Mặt trận đã làm tốt vai trò nòng cốt trong tham gia công tác hòa giải, những mâu thuẫn, tranh chấp nhỏ được giải quyết kịp thời ngay từ cơ sở, hạn chế được đơn thư, khiếu nại vượt cấp, tiết kiệm thời gian, tiền bạc của cơ quan nhà nước và Nhân dân, tạo nên không khí vui vẻ, gắn kết trong cộng đồng dân cư.
Về khó khăn, cấp ủy, chính quyền ở một số nơi chưa quan tâm đúng mức đến công tác hòa giải ở cơ sở; cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về hòa giải cơ sở chủ yếu là kiêm nhiệm; việc chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở có nơi chưa kịp thời gây khó khăn cho cơ sở trong quá trình triển khai thực hiện;
Một số quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở chưa phù hợp với thực tiễn đặc biệt là quy trình bầu Hòa giải viên còn rườm rà, hình thức, không khả thi nhất là việc tổ chức họp dân hoặc phát phiếu lấy ý kiến hộ gia đình theo quy định tại Điều 8 Luật Hòa giải ở cơ sở;
Sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước, Ủy ban MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên trong công tác hòa giải ở cơ sở ở một số nơi chưa thường xuyên và thiếu sự chủ động, đội ngũ hòa giải viên thường xuyên biến động. Việc tổ chức bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng hòa giải, cung cấp tài liệu pháp luật cho hòa giải viên chưa được thường xuyên, kịp thời;
Một số nơi hoạt động hòa giải còn mang tính hình thức, chiếu lệ hoặc bị hành chính hóa làm mất đi ý nghĩa và bản chất tự nguyện, tự thỏa thuận của hoạt động hòa giải. Nhiều vụ việc tranh chấp, mâu thuẫn thuộc phạm vi hòa giải chưa được phát hiện và ngăn chặn kịp thời. Năng lực hòa giải viên một số nơi chưa đáp ứng được yêu cầu, ảnh hưởng đến kết quả hòa giải thành; một số vụ việc quá trình hoà giải chưa giải quyết triệt để dẫn đến tình trạng mâu thuẫn kéo dài và phải chuyển đến các cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố tụng;
Một số nơi, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng có kinh tế đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào công giáo, vùng dân tộc thiểu số, miền núi việc vận động phụ nữ tham gia làm hòa giải viên gặp khó khăn, nhiều tổ hòa giải chưa đảm bảo cơ cấu Hòa giải viên là nữ;
Kinh phí đảm bảo cho công tác hòa giải nhiều nơi chưa được quan tâm đúng mức nên đã ảnh hưởng đến chất lượng công tác hòa giải. Việc thanh quyết toán còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều địa phương chưa cân đối được ngân sách, quy định mức chi thấp hơn văn bản hướng dẫn.
Ông Uông Ngọc Thuẩn có thể cho biết rõ hơn về vai trò của công tác dân vận trong hoạt động hòa giải ở cơ sở?
Ông Uông Ngọc Thuẩn: Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể giao cho. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Trong khi đó, hòa giải là một phương thức giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn để dẫn đến đồng thuận, sự chấp nhận của các bên để quyết định có lợi cho các bên.
Muốn hòa giải thành công cần vận động, giải thích, hướng dẫn và khuyến khích các bên, nghĩa là rất cần đến dân vận. Xét về mục đích, kết quả, ý nghĩa xã hội thì hòa giải ở cơ sở cũng là một bộ phận của công tác dân vận nên cần định hướng nâng cao nhận thức về giải ở cơ sở; xây dựng tổ hòa giải và đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở (lãnh đạo, định hướng, tổ chức xây dựng tổ hòa giải và đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở; cử người tham gia tổ hòa giải, làm hòa giải viên; bồi dưỡng, nâng cao năng lực của hòa giải viên, đặc biệt là kỹ năng dân vận); thực hiện hòa giải ở cơ sở (lãnh đạo, thực hiện, giám sát công tác hòa giải; hỗ trợ công tác hòa giải ở cơ sở về con người, tài chính, cơ sở vật chất; đảng viên, đoàn viên, hội viên thực hiện hòa giải ở cơ sở với tư cách là hòa giải viên); xử lý kết quả hòa giải (theo dõi, lãnh đạo, chỉ đạo, hỗ trợ, vận động thực hiện kết quả hòa giải thành; xử lý các vấn đề phát sinh nếu hòa giải không thành, đảm bảo an toàn, an ninh, ổn định).
Cảm ơn ông Uông Ngọc Thuẩn đã cho độc giả Việt Nam hiểu rõ hơn về vai trò của công tác dân vận trong hoạt động hòa giải ở cơ sở. Thực tế hiện nay, kinh tế - xã hội phát triển cũng tất yếu kéo theo nhiều vụ mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh cần hòa giải ở cơ sở. Theo bà Phạm Thị Hồng, cần có những giải pháp gì để tăng cường công tác phối hợp giữa UBMTTQVN với Ngành Tư pháp trong hoạt động hòa giải ở cơ sở?
Bà Phạm Thị Hồng: Để nâng cao chất lượng hoạt động hòa giải ở cơ sở hai cơ quan cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, hai bên phối hợp tăng cường tập huấn chuyên môn pháp luật, kỹ năng hòa giải nhằm chất lượng đội ngũ hòa giải viên.
Thứ hai, trước mắt trong điều kiện chưa sửa Luật hòa giải ở cơ sở, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Bộ Tư pháp cần tham mưu cho Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 01/2014/NQLT/CP-UBTWMTTQVN ngày 18/11/2014 của Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn phối hợp thực hiện một số quy định pháp luật về Hòa giải ở cơ sở vào luật, trong đó quy định rõ hơn vai trò nòng cốt của Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận; trách nhiệm của ngành tư pháp các cấp trong hoạt động hòa giải ở cơ sở.
Thứ ba, hai bên nghiên cứu xây dựng Chương trình phối hợp công tác giữa Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Bộ Tư pháp trong đó có hoạt động phối hợp thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở. Chú trọng hướng dẫn hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tư pháp các cấp từ trung ương đến cơ sở phối hợp chặt chẽ triển khai các văn bản pháp luật liên quan đến công tác hòa giải ở cơ sở; đẩy mạnh lồng ghép việc thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở với các phong trào thi đua yêu nước, cuộc vận động do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì và phát động; kết hợp chặt chẽ công tác hòa giải ở cơ sở với hoàn thiện quy chế dân chủ ở cơ sở; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện.
Thứ tư, xem xét nghiên cứu đưa tiêu chí chất lượng hòa giải (tỷ lệ hòa giải thành) là một trong các tiêu chí đánh giá chất lượng chính quyền và Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên của Mặt trận hàng năm ở cơ sở.
Thứ năm, đảm bảo nguồn kinh phí thỏa đáng cho hoạt động hòa giải ở cơ sở đồng thời huy động các nguồn lực xã hội tham gia vào công tác hòa giải ở cơ sở, nhất là đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác pháp luật đã nghỉ hưu, người có uy tín, già làng, trưởng bản, các chức sắc tôn tham gia công tác hòa giải ở cơ sở.
Thực tế cho thấy công tác hòa giải ở cơ sở đã góp phần quan trọng trong việc ổn định trật tự an toàn xã hội. Để hòa giải thành, thì yếu tố tiên quyết là chất lượng đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở. Đề nghị ông Uông Ngọc Thuẩn cho biết một số giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở thời gian tới?
Ông Uông Ngọc Thuẩn: Để nâng cao chất lượng đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở, Bộ Tư pháp đã tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 428/QĐ-TTg ngày 18/4/2019 phê duyệt Đề án “Nâng cao năng lực đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở giai đoạn 2019-2022”. Trong đó, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tư pháp, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các Bộ, ngành có liên quan triển khai các nhiệm vụ để nâng cao chất lượng hòa giải viên ở cơ sở. Thực hiện Đề án, Bộ Tư pháp đã triển khai các nhiệm vụ như sau:
Ban hành các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo triển khai Đề án: Quyết định số 1331/QĐ-BTP ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án trong năm 2019; Công văn số 2209/BTP-PBGDPL ngày 17/6/2020 hướng dẫn các tỉnh, thành phố thực hiện Đề án trong năm 2019; Quyết định số 263/QĐ-BTP ngày 13/2/2020 về Kế hoạch thực hiện Đề án năm 2020, Công văn số 479/BTP-PBGDPL ngày 17/2/2020 hướng dẫn địa phương thực hiện Đề án năm 2020.
Xây dựng đội ngũ tập huấn viên cấp tỉnh, cấp huyện có đủ khả năng, kiến thức, phương pháp để hướng dẫn, tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng hòa giải cho hòa giải viên ở cơ sở từ nguồn cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp; cán bộ, công chức thuộc tổ chức chính trị - xã hội tham gia công tác hòa giải ở cơ sở; báo cáo viên pháp luật và các cá nhân khác đáp ứng tiêu chuẩn làm hòa giải viên ở cơ sở theo quy định của pháp luật. Đến nay, 63 tỉnh, thành phố đã xây dựng đội ngũ tập huấn viên cấp tỉnh với trên 300 tập huấn viên cấp tỉnh và hướng dẫn UBND cấp huyện xây dựng đội ngũ tập huấn viên cấp huyện.
Xây dựng Bộ tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở và đội ngũ tập huấn viên. Hiện nay, Bộ Tư pháp đang hoàn thiện 02 Bộ tài liệu này để đăng tải trên Trang thông tin PBGDPL để địa phương, hòa giải viên chủ động khai thác sử dụng.
Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ tập huấn viên cấp tỉnh. Dự kiến trong quý III-IV/2020, Bộ Tư pháp sẽ triển khai hoạt động này tại một số tỉnh. Đồng thời, hướng dẫn địa phương tập huấn cho đội ngũ tập huấn viên cấp huyện.
Thực hiện chỉ đạo điểm tại một số đơn vị cấp xã thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đại diện các vùng miền cả nước theo quy định tại Quyết định số 428/QĐ-TTg.
Chỉ đạo, hướng dẫn địa phương rà soát, kiện toàn đội ngũ hòa giải viên có đủ tiêu chuẩn, năng lực đáp ứng yêu cầu của công tác hòa giải ở cơ sở.
Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong việc khai thác các cơ sở dữ liệu pháp luật liên quan đến công tác hòa giải ở cơ sở thông qua các hoạt động như xây dựng các bài giảng trực tuyến, số hóa và đăng tải các tài liệu tập huấn, bồi dưỡng, các ấn phẩm khác về hòa giải ở cơ sở trên cơ sở dữ liệu về phổ biến, giáo dục pháp luật, trên mạng xã hội facebook, youtube, trang fanpage và các mạng xã hội khác..., các phương tiện phát thanh, truyền hình, hệ thống thông tin cơ sở.
Kiểm tra, tổng kết việc thực hiện Đề án để đánh giá việc thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở, đề xuất cơ quan có thẩm quyền tháo gỡ những vướng mắc, bất cập, vấn đề mới phát sinh trong công tác hòa giải ở cơ sở. Đồng thời, nghiên cứu, rà soát các quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở để kiến nghị, đề xuất cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Bên cạnh đó, tổ chức tôn vinh, biểu dương, khen thưởng những hòa giải viên, tổ hòa giải ở cơ sở điển hình xuất sắc, tổ chức, cá nhân có đóng góp tích cực trong công tác hòa giải ở cơ sở.
Việc triển khai các nhiệm vụ trên sẽ nâng cao năng lực cho hòa giải viên ở cơ sở, từ đó tăng số lượng vụ, việc tranh chấp dân sự được hòa giải ở cơ sở và được Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, nhất là các vụ, việc phức tạp, tranh chấp có giá trị tài sản lớn; nâng cao vai trò, vị thế của hòa giải viên ở cơ sở.
Cảm ơn những thông tin từ ông Uông Ngọc Thuẩn. Về phía UBMTTQVN, đề nghị bà Phạm Thị Hồng cho biết, một số giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở trong hệ thống MTTQVN?
Bà Phạm Thị Hồng: Để phát huy những thuận lợi, khắc phục những khó khăn trong công tác hòa giải trong thời gian tới với tư cách là ban tham mưu giúp Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện tốt một số nội dung sau:
Hướng dẫn Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp phối hợp với cơ quan tư pháp cùng cấp tổ chức bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ hoà giải viên. Tiếp tục củng cố kiện toàn nâng cao năng lực, chất lượng của đội ngũ hòa giải viên;
Phối hợp tổ chức các hội thi tìm hiểu pháp luật, hội thi hoà giải viên giỏi, tuyên truyền viên pháp luật giỏi với những nội dung phong phú, đa dạng và sinh động, dễ hiểu,dễ nhớ.
Thường xuyên tổ chức những buổi sinh hoạt chuyên môn định kỳ cho các hoà giải viên, đưa công tác hoà giải lồng vào các hoạt động phong trào khác của địa phương, như: phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh; phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, trật tự an toàn xã hội...
Cung cấp tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ, tài liệu pháp luật cho đội ngũ hoà giải viên, đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm tăng cường hiệu quả của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hoà giải ở cơ sở.
Tăng cường hoạt động sơ kết, tổng kết, toạ đàm trao đổi kinh nghiệm hòa giải ở cơ sở, khen thưởng tổ chức, cá nhân có thành tích trong hoạt động hòa giải ở cơ sở.
Đề xuất, phối hợp với các cơ quan liên quan có quy định cụ thể đảm bảo kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở. Đây là một trong những khó khăn ở nhiều địa phương (chế độ thù lao cho hòa giải viên còn thấp, thủ tục thanh quyết toán còn rườm rà).
Xin bà cho biết quy định về số lượng hòa giải viên ở các địa phương? Muốn làm một hòa giải viên, tôi phải đáp ứng những tiêu chuẩn gì?
Bà Phạm Thị Hồng: Theo quy định tại Điều 12 Luật Hòa giải ở cơ sở, Chủ tịch UBND cấp xã quyết định số lượng tổ hòa giải, hòa giải viên trong một tổ hòa giải căn cứ vào đặc điểm, tình hình kinh tế - xã hội, dân số của địa phương và đề nghị của Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã. Tổ hòa giải có tổ trưởng và các hòa giải viên.
Mỗi tổ hòa giải có từ 03 hòa giải viên trở lên, trong đó có hòa giải viên nữ. Đối với vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, tổ hòa giải phải có hòa giải viên là người dân tộc thiểu số. Tiêu chuẩn hòa giải viên được quy định tại Điều 7 Luật hòa giải ở cơ sở, theo đó, người được bầu làm hòa giải viên phải là công dân Việt Nam thường trú tại cơ sở, tự nguyện tham gia hoạt động hòa giải và có các tiêu chuẩn sau đây: 1. Có phẩm chất đạo đức tốt; có uy tín trong cộng đồng dân cư; 2. Có khả năng thuyết phục, vận động nhân dân; có hiểu biết pháp luật.
Xin ông Uông Ngọc Thuẩn cho biết thêm về phạm vi hòa giải ở cơ sở?
Ông Uông Ngọc Thuẩn: Theo Luật Hòa giải ở cơ sở, việc hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật, trừ các trường hợp sau đây: mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình, giao dịch dân sự mà theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự không được hòa giải; vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị xử lý vi phạm hành chính; mâu thuẫn, tranh chấp khác không được hòa giải ở cơ sở theo quy định pháp luật.
Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP quy định rõ những trường hợp được tiến hành hòa giải và những trường hợp không được tiến hành hòa giải. Cụ thể:
a) Mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật được tiến hành hòa giải
Theo Khoản 1 Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP, hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật sau đây:
- Mâu thuẫn giữa các bên (do khác nhau về quan niệm sống, lối sống, tính tình không hợp hoặc mâu thuẫn trong việc sử dụng lối đi qua nhà, lối đi chung, sử dụng điện, nước sinh hoạt, công trình phụ, giờ giấc sinh hoạt, gây mất vệ sinh chung hoặc các lý do khác);
- Tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự như tranh chấp về quyền sở hữu, nghĩa vụ dân sự, hợp đồng dân sự, thừa kế, quyền sử dụng đất;
- Tranh chấp phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình như tranh chấp phát sinh từ quan hệ giữa vợ, chồng; quan hệ giữa cha, mẹ và con; quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa anh, chị, em và giữa các thành viên khác trong gia đình; cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; ly hôn.
- Vi phạm pháp luật mà theo quy định của pháp luật những việc vi phạm đó chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, xử lý vi phạm hành chính:
- Vi phạm pháp luật hình sự trong các trường hợp sau đây thì hòa giải viên có thể tiến hành hòa giải, cụ thể là:
+ Trường hợp không bị khởi tố vụ án theo quy định tại Điều 157 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
+ Trường hợp pháp luật quy định chỉ khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại, nhưng người bị hại không yêu cầu khởi tố theo quy định tại khoản 1 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
+ Vụ án đã được khởi tố, nhưng sau đó có quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng về đình chỉ điều tra theo quy định tại khoản 1 Điều 230 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 hoặc đình chỉ vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 282 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
- Vi phạm pháp luật bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo quy định tại Nghị định số 111/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/9/2013 quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn; hoặc có đủ điều kiện để áp dụng biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại Chương II Phần thứ năm của Luật xử lý vi phạm hành chính.
- Những vụ, việc khác mà pháp luật không cấm.
b) Các trường hợp không hòa giải
Theo Khoản 2 Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP, các trường hợp sau đây không hòa giải:
- Mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; đó là các mâu thuẫn, tranh chấp làm tổn hại đến lợi ích chung của Nhà nước, của cộng đồng. Ví dụ: Các mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm, lấn chiếm đất công, tranh chấp về sử dụng trái phép công trình công cộng…
- Vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình, giao dịch dân sự mà theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự không được hòa giải, cụ thể là:
+ Vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình mà theo quy định của pháp luật phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết (ví dụ như kết hôn trái pháp luật, tảo hôn).
+ Giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội.
- Vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
- Vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị xử lý vi phạm hành chính;
- Mâu thuẫn, tranh chấp khác không được hòa giải ở cơ sở bao gồm: Tranh chấp về thương mại và tranh chấp về lao động, việc hòa giải các tranh chấp này được thực hiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành về thương mại và lao động.
Xin bà Phạm Thị Hồng cho biết quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của hòa giải viên? Hòa giải viên được hưởng thù lao như thế nào?
Bà Phạm Thị Hồng: Theo Điều 9 quyền của hòa giải viên được quy định như sau:
- Thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở.
- Đề nghị các bên có liên quan cung cấp tài liệu, thông tin liên quan đến vụ, việc hòa giải.
- Tham gia sinh hoạt, thảo luận và quyết định nội dung, phương thức hoạt động của tổ hòa giải.
- Được bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ và kỹ năng hòa giải; được cung cấp tài liệu liên quan đến hoạt động hòa giải.
- Hưởng thù lao theo vụ, việc khi thực hiện hòa giải.
- Được khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng.
- Được hỗ trợ, tạo điều kiện để khắc phục hậu quả nếu gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải.
- Kiến nghị, đề xuất về các vấn đề liên quan đến hoạt động hòa giải.
Theo Điều 10, nghĩa vụ của hòa giải viên được quy định như sau:
- Thực hiện hòa giải khi có căn cứ theo quy định tại Điều 16 của Luật này.
- Tuân thủ các nguyên tắc quy định tại Điều 4 của Luật này.
- Từ chối tiến hành hòa giải nếu bản thân có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ, việc hòa giải hoặc vì lý do khác dẫn đến không thể bảo đảm khách quan, công bằng trong hòa giải.
- Thông báo kịp thời cho tổ trưởng tổ hòa giải để báo cáo Chủ tịch UBND cấp xã có biện pháp phòng ngừa trong trường hợp thấy mâu thuẫn, tranh chấp nghiêm trọng có thể dẫn đến hành vi bạo lực gây ảnh hưởng đến sức khoẻ, tính mạng của các bên hoặc gây mất trật tự công cộng.
- Thông báo kịp thời cho tổ trưởng tổ hòa giải để báo cáo cơ quan có thẩm quyền xử lý trong trường hợp phát hiện mâu thuẫn, tranh chấp có dấu hiệu vi phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc pháp luật về hình sự.
* Thù lao hòa giải viên: Theo Khoản 19 Điều 4 Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT-BTC-BTP ngày 30/7/2014 quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở quy định Chi thù lao cho hòa giải viên (đối với các hòa giải viên trực tiếp tham gia vụ, việc hòa giải): Mức chi tối đa 200.000 đồng/vụ, việc.
Công tác hòa giải ở cơ sở và phổ biến, giáo dục pháp luật có mối quan hệ như thế nào, thưa ông Uông Ngọc Thuẩn?
Ông Uông Ngọc Thuẩn: Hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật theo quy định của Luật hòa giải ở cơ sở.
Tại khoản 5 Điều 11 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật quy định các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật, trong đó “.... thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở” được coi là một hình thức PBGDPL.
Từ thực tiễn công tác hòa giải ở cơ sở cho thấy, hòa giải ở cơ sở có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Bởi khi hòa giải, các hòa giải viên bên cạnh việc dựa vào những chuẩn mực đạo đức, văn hóa ứng xử, phong tục, tập quán tốt đẹp để tác động tới tâm tư, tình cảm của các bên, khơi dậy trong họ những suy nghĩ, tình cảm tích cực, còn cần phải vận dụng các quy định pháp luật để giải thích, hướng dẫn các bên, giúp họ hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình để tự lựa chọn, tự dàn xếp ổn thỏa với nhau mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật.
Theo đó, thông qua hòa giải, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với người dân một cách tự nhiên, trực tiếp, có sức thẩm thấu sâu sắc, sức lan tỏa rộng.
Tuy nhiên, PBGDPL thông qua hoà giải khác với tuyên truyền miệng về pháp luật ở chỗ là chỉ khi nào có vụ việc vi phạm pháp luật hoặc tranh chấp, mâu thuẫn xảy ra thuộc phạm vi được hòa giải ở cơ sở thì hoà giải viên mới có lý do để tiến hành hoà giải và kết hợp với việc PBGDPL cho các bên tranh chấp, mâu thuẫn và những người có liên quan trong quá trình tiến hành hòa giải. Vì vậy, phương thức PBGDPL thông qua hoạt động hòa giải ở đây là phương thức tác động trực tiếp từ Hòa giải viên đến các bên tranh chấp, mâu thuẫn và những người khác với nội dung PBGDPL đã được xác định, gắn liền với từng tranh chấp, mâu thuẫn, vi phạm pháp luật cụ thể...
Hòa giải viên hoặc những người được hoà giải viên mời tham gia hoà giải là những người trực tiếp, giữ vai trò trung tâm. Nội dung pháp luật được các bên tranh chấp, mâu thuẫn và những người khác lưu giữ một cách bền vững hơn, tính chủ động phòng tránh tái xảy ra các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật tương tự cao hơn hoặc nếu bất đắc dĩ tái xảy ra các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật tương tự thì họ cũng chủ động hơn trong cách xử lý theo chiều hướng tích cực bởi họ đã biết những kiến thức pháp luật nhất định có liên quan.
Xuất phát từ vai trò và ý nghĩa nêu trên của hòa giải ở cơ sở mà xét ở một khía cạnh nhất định ở phạm vi hẹp thì hòa giải ở cơ sở chính là một hình thức hữu hiệu để tuyên truyền PBGDPL tới nhóm đối tượng người dân cụ thể là các cá nhân, nhóm cá nhân, gia đình, nhóm gia đình, tổ chức có mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở theo quy đinh của Luật hòa giải ở cơ sở và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Xin bà cho biết Công việc thực tế của hòa giải viên đòi hỏi phải có kiến thức về pháp luật, vậy việc bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho hòa giải viên thực hiện thế nào, cấp ngành nào chịu trách nhiệm?
Bà Phạm Thị Hồng: Theo quy định tại Khoản 4 Điều 9 Luật Hòa giải ở cơ sở, hòa giải viên có quyền: “Được bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ và kỹ năng hòa giải; được cung cấp tài liệu liên quan đến hoạt động hòa giải”. Theo quy định tại Khoản 2 điểm c Điều 28 Luật Hòa giải ở cơ sở, Bộ Tư pháp có trách nhiệm: “Biên soạn, phát hành tài liệu, tổ chức bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ, kỹ năng thực hiện công tác quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở cho cấp tỉnh”.
Đồng thời, Điều 29 Luật Hòa giải ở cơ sở quy định UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) có trách nhiệm tổ chức bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ và kỹ năng hòa giải ở cơ sở cho hòa giải viên theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp.
Xin hỏi hòa giải viên bị tai nạn trong khi thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở, thì được giải quyết chế độ, quyền lợi ra sao?
Bà Phạm Thị Hồng: Khoản 7 Điều 9 Luật Hòa giải ở cơ sở quy định hòa giải viên có quyền: “Được hỗ trợ, tạo điều kiện để khắc phục hậu quả nếu gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải”.
Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT-BTC-BTP ngày 30/7/2014 quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở quy định: - Hỗ trợ chi phí y tế cho việc cứu chữa, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất hoặc giảm sút đối với hòa giải viên bị tai nạn trong khi thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở (bao gồm cả trường hợp hòa giải viên bị tai nạn được cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc trước khi chết) được thực hiện như sau:
Đối với người bị tai nạn có tham gia bảo hiểm y tế thì việc thanh toán chi phí y tế cho cứu chữa, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất hoặc giảm sút đối với người bị tai nạn được thực hiện theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế;
Đối với người bị tai nạn không tham gia bảo hiểm y tế ngân sách nhà nước hỗ trợ chi phí y tế cho việc cứu chữa, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất hoặc giảm sút bằng mức hưởng chi phí khám bệnh, chữa bệnh của đối tượng tham gia bảo hiểm y tế được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán theo quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 22 của Luật bảo hiểm y tế.
Hỗ trợ thu nhập thực, tế bị mất hoặc bị giảm sút đối với hòa giải viên bị tai nạn trong thời gian cứu chữa, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất hoặc giảm sút được thực hiện theo quy định tại Thông tư liên tịch số 02/2013/TTLT-BNV-BLĐTBXH-BTC-BYT ngày 09/07/2013 của Bộ Nội vụ, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Bộ Y tế hướng dẫn quy trình, thủ tục, hồ sơ, mức hỗ trợ người đang trực tiếp tham gia hoạt động chữ thập đỏ bị tai nạn dẫn đến thiệt hại về sức khỏe.
Có ý kiến cho rằng người dân ngại đưa vụ, việc hòa giải thành ở cơ sở ra Toà án công nhận kết quả do đây là những vụ việc có giá trị tài sản không lớn, chỉ là mâu thuẫn nhỏ, hơn nữa người nộp đơn yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở phải nộp lệ phí giải quyết việc dân sự theo quy định. Theo ông, việc yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở có ý nghĩa như thế nào đối với việc thực thi kết quả hòa giải thành?
Ông Uông Ngọc Thuẩn: Thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án đã được quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (Chương XXXIII của Bộ luật), Bộ luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016. Căn cứ quy định tại Bộ luật này, Tòa án Tòa án nhân dân cấp huyện là cơ quan có thẩm quyền ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở (Khoản 7 Điều 27; Điểm a Khoản 2 Điều 35 và Điểm s Khoản 2 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015).
Trên cơ sở thống nhất với Tòa án nhân dân tối cao, ngày 05/5/2017, Bộ Tư pháp đã ban hành Công văn số 1503/BTP-PBGDPL về việc hướng dẫn thực hiện thủ tục yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở.
Việc yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở là hoàn toàn tự nguyện, các bên có quyền gửi đơn yêu cầu hoặc không gửi đơn yêu cầu. Việc Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án có ý nghĩa rất lớn, do Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự. Vì vậy, đối với những tranh chấp giá trị tài sản nhỏ, mâu thuẫn về quan điểm, lối sống thì khi hòa giải thành, các bên không nhất thiết đề nghị Tòa án công nhận mà tự thực hiện theo thỏa thuận.
Đối với tranh chấp giá trị tài sản lớn (như đất đai, phân chia di sản thừa kế, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng…) nếu được hòa giải thành thì các bên nên đề nghị Tòa án công nhận bởi việc áp dụng biện pháp hòa giải ở cơ sở trong giải quyết tranh chấp tiết kiệm rất nhiều thời gian cho các bên (tránh việc phải tuân thủ những thủ tục tố tụng theo quy định pháp luật về tố tụng dân sự) và giảm thiểu rất nhiều chi phí (chi phí án phí theo giá ngạch rất lớn, chi phí giám định… có những vụ án dân sự kéo dài nhiều năm, trải qua nhiều lần xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm rồi lại quay trở về xét xử sơ thẩm lại, bên thắng kiện đôi khi không đủ bù đắp chi phí tố tụng, ngoài ra công việc bị ảnh hưởng, thu nhập bị giảm sút).
Vì vậy, nếu hòa giải thành những vụ việc phức tạp, tranh chấp giá trị tài sản lớn thì việc các bên phải nộp lệ phí (300.000 đồng theo quy định hiện nay) là rất thấp so với chi phí án phí và thời gian, công sức các bên đưa vụ việc ra Tòa án giải quyết. Hơn nữa kết quả hòa giải thành có giá trị pháp lý rất cao, nếu được Tòa án công nhận thì được thi hành như thi hành án dân sự.
Đối thoại trực tuyến về công tác dân vận trong hoạt động hòa giải ở cơ sở xin phép đưọc kết thúc. Chương trình do Báo Pháp luật Việt Nam phối hợp với Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật tổ chức. Cảm ơn các vị khách mời và Quý độc giả tham gia chương trình!