Liên kết website

Luật số 65/2011/QH12 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự

07/06/2011

Ngày 29/3/2011, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về tăng thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân, trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam hiện nay, khi mà trình độ dân trí còn hạn chế, người dân còn gặp nhiều khó khăn trong việc tự chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án, thì việc quy định tăng thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân, để Viện kiểm sát nhân dân được tham gia các phiên tòa dân sự, qua đó thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình là cần thiết. Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự lần này đã quy định: “Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật, nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật. Viện kiểm sát nhân dân tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với những vụ việc dân sự, các phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần; Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm”.

Về vấn đề thời hiệu, Luật đã sửa đổi như sau: “Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được thực hiện theo quy định của pháp luật. Trường hợp pháp luật không có quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự thì thực hiện như sau: Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản, tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu , tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện”. Tranh chấp không thuộc các trường hợp trên thì thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là 2 năm, kể từ ngày cá nhân, cơ quan, tổ chức biết được quyền và lợi ích pháp của mình bị xâm phạm. “Trường hợp pháp luật không có quy định về thời hiệu yêu cầu thì thời hiệu yêu cầu để Tòa án giải quyết việc dân sự là 1 năm kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu, trừ các việc dân sự có liên quan đến quyền dân sự về nhân thân của cá nhân thì không áp dụng thời hiệu yêu cầu”.

Luật cũng sửa đổi một số quy định theo hướng mở rộng quyền giải quyết của Tòa án trong các vụ việc, vụ án về dân sự, theo đó, yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu và yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản; phân chia tài sản chung để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án.

Các tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án được bổ sung 02 loại là: Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu và tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.

Đương sự trong các vụ việc dân sự có thêm quyền được trực tiếp đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề liên quan đến vụ án khi được phép của Tòa án hoặc đề xuất với Tòa án những vấn đề cần hỏi với người khác; được đối chất với nhau hoặc với người làm chứng (quy định trước đây chỉ cho phép đương sự đề xuất với Toà án những vấn đề cần hỏi người khác; được đối chất với nhau hoặc với nhân chứng).

Về xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC). Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự quy định thêm về thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức; về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản; những quy định cụ thể về hòa giải. Về thủ tục giám đốc thẩm, Luật quy định giữ nguyên thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm của người có thẩm quyền là 03 năm. Trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị 03 năm được kéo dài thêm 02 năm với các điều kiện: đương sự đã có đơn đề nghị và sau khi hết thời hạn kháng nghị quy định, đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị; Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, của người thứ ba, xâm phạm lợi ích của Nhà nước... Về việc xem xét lại quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, Điều 30a. 30b đã quy định cụ thể về việc yêu cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, thủ tục và thẩm quyền xem xét (Quy định hiện nay thì Hội đồng Thẩm phán TANDTC là cơ quan xét xử cao nhất). Đó là khi có căn cứ xác định quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết quan trọng, mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định mà Hội đồng Thẩm phán TANDTC, đương sự không biết được khi ra quyết định đó, nếu có yêu cầu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng VKSNDTC hoặc đề nghị của Chánh án TANDTC thì Hội đồng Thẩm phán TANDTC xem xét lại quyết định đó...

Luật này có hiệu lực từ 01/01/2012.

Các tin đã đưa ngày: