1. Thực trạng công tác hòa giải ở cơ sở
1. Ưu điểm
Sự ra đời của Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã đánh dấu một bước phát triển mới quan trọng trong công tác hòa giải ở cơ sở, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn khi mà các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật trong đời sống của cộng đồng dân cư ngày càng tăng về số lượng và đa dạng, phức tạp về nội dung mâu thuẫn, tranh chấp.
Việc thực hiện Luật hòa giải ở cơ sở trên toàn quốc đã tác động tích cực đến đời sống xã hội, tạo cơ sở pháp lý toàn diện, đầy đủ và vững chắc cho hoạt động hòa giải ở cơ sở đi vào nề nếp, thống nhất và hiệu quả, qua đó khẳng định vị trí và vai trò quan trọng của công tác hòa giải ở cơ sở trong đời sống xã hội. Tính đến hết tháng 12/2017, cả nước có 107.561 tổ hòa giải được thành lập tại thôn, tổ dân phố với 651.215 hòa giải viên, trong đó số hòa giải viên nữ là 183.004 (chiếm 28,1%); số hòa giải viên là người dân tộc thiểu số là 165.146 (chiếm 25,4%). Đa phần các tổ hòa giải đều bảo đảm đúng, đủ thành phần, cơ cấu theo quy định. Số vụ việc hòa giải thành tính từ năm 2014 đến hết năm 2017 là 472.197/579.609 vụ việc hòa giải, đạt tỷ lệ 81,45%, tỷ lệ hòa giải thành tăng bền vững giữa các năm.
Tiêu chuẩn, số lượng hòa giải viên và thành phần của tổ hòa giải bảo đảm đúng theo quy định của Luật hòa giải ở cơ sở, quy tụ được lực lượng nòng cốt, có uy tín, kinh nghiệm trong cộng đồng dân cư, bảo đảm hoạt động hòa giải đạt hiệu quả cao; đồng thời, bảo đảm được sự phối hợp chặt chẽ của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức, đoàn thể của nhân dân trong công tác hòa giải ở cơ sở. Các hòa giải viên sau khi được bầu, công nhận đã có ý thức tích cực nghiên cứu, tìm hiểu quy định pháp luật, kỹ năng hòa giải để thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở ngày một tốt hơn, tỷ lệ hòa giải thành cao hơn. Những tấm gương điển hình xuất sắc, những tập thể, cá nhân có nhiều đóng góp cho công tác hòa giải ở cơ sở ngày càng nhiều, góp phần đề cao giá trị nhân văn, ý nghĩa cao đẹp của công tác hòa giải ở cơ sở.
Bên cạnh đó, nhằm mục đích tạo công cụ giúp hòa giải viên dễ dàng tra cứu, tiếp cận, áp dụng và thực hiện pháp luật, góp phần làm minh bạch hóa và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực hòa giải ở cơ sở, việc rà soát các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác hòa giải ở cơ sở đã được Bộ Tư pháp tiến hành và công bố công khai trên Cổng thông tin điện tử của Bộ.
Nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, lãnh đạo các cơ quan, đơn vị, tổ chức, đoàn thể về vai trò, vị trí của công tác hòa giải ở cơ sở đã được nâng lên, đặc biệt là sự chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan tư pháp địa phương, sự phối hợp của các tổ chức chính trị - xã hội, nhất là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, sự nhiệt tình, sáng tạo của các hòa giải viên nên phần lớn các tổ hòa giải trên cả nước đều hoạt động có hiệu quả. Nhiều địa phương có cách làm hay đã đưa Luật hòa giải ở cơ sở và các văn bản hướng dẫn thi hành thật sự đi vào cuộc sống, góp phần nâng cao nhận thức của toàn xã hội, đặc biệt là người dân về vị trí, vai trò và ý nghĩa quan trọng của công tác này, từ đó sử dụng ngày càng nhiều hơn biện pháp hòa giải để giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn, vi phạm pháp luật thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở trong cộng đồng dân cư.
[1]
Một số địa phương đã quan tâm, bố trí nguồn kinh phí nhất định phục vụ công tác hòa giải ở cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động hòa giải ở cơ sở nên đã khích lệ, động viên các hòa giải viên thực hiện hòa giải, phát huy tinh thần trách nhiệm vì cộng đồng.
Hàng năm, đội ngũ cán bộ, công chức được giao tham mưu, quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở từ trung ương đến địa phương đều được rà soát, củng cố, kiện toàn và nâng cao năng lực đã tạo điều kiện cho hoạt động quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở đi vào nề nếp, hoạt động chỉ đạo, điều hành và thực hiện từ trung ương đến địa phương được thông suốt. Nhiều địa phương đã có những sáng kiến, mô hình hay, cách làm hiệu quả, huy động được các nguồn lực khác trong xã hội, các dự án tài trợ nước ngoài trong công tác này như: Hội thi hòa giải viên giỏi tại tỉnh Hà Tĩnh năm 2018 được sự hỗ trợ về nguồn lực rất lớn của Chính phủ Vương quốc Bỉ từ “Dự án hỗ trợ quản trị địa phương trách nhiệm giải trình, đáp ứng được tại tỉnh Hà Tĩnh“ (RALG Hà Tĩnh); hay tại Đồng Tháp có mô hình Câu lạc bộ hòa giải được thành lập nhằm tạo điều kiện để các hòa giải viên tiếp cận, cập nhật những kiến thức pháp luật mới kịp thời và cùng trao đổi kinh nghiệm để vận dụng vào công tác hòa giải, góp phần nâng cao chất lượng công tác hòa giải ở cơ sở; hay tại tỉnh Lạng Sơn khi xây dựng tổ hòa giải điển hình tiên tiến đã đồng thời ban hành các tiêu chí đánh giá (Tổ hòa giải có từ 5 tổ viên trở lên (có đủ đại diện các tổ chức Hội, đoàn thể ở cơ sở tham gia); Hòa giải viên có đủ tiêu chuẩn theo quy định của Luật hòa giải ở cơ sở; Các vụ việc hòa giải thành đạt 90% trở lên; Không có vụ việc hòa giải trái thẩm quyền; Vận dụng linh hoạt, có hiệu quả phương pháp, cách thức hòa giải kết hợp với tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho các bên tranh chấp; Chủ động mời, phát huy vai trò của người có uy tín trong cộng đồng dân cư, trong dòng họ... tham gia công tác hòa giải ở cơ sở); hay tại thành phố Hà Nội, nhiều đơn vị quận, huyện vẫn tích cực duy trì mô hình hoạt động tổ hòa giải 5 tốt (phát hiện vụ việc kịp thời, phối hợp với các ban ngành, đoàn thể tốt, tổ chức hòa giải tốt (hòa giải thành từ 80% trở lên), bồi dưỡng, tập huấn hòa giải viên tốt, định kỳ giao ban, báo cáo sơ kết, tổng kết tốt).
2. Tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả và ưu điểm đạt được nêu trên, công tác hòa giải ở cơ sở vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế và tồn tại. Cụ thể như sau:
2.1. Hoạt động quản lý nhà nước về công tác hòa giải cơ sở
Vẫn còn một số địa phương chưa nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công tác hòa giải ở cơ sở đối với đời sống xã hội nên thiếu sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư kinh phí, nguồn lực cho công tác hòa giải ở cơ sở, chưa phát huy hết trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về công tác hòa giải ở cơ sở tại địa phương. Đặc biệt tại cấp xã, lực lượng công chức Tư pháp – Hộ tịch xã, phường, thị trấn còn mỏng lại kiêm nhiệm nhiều công việc, nên chưa dành nhiều thời gian cho công tác hòa giải cơ sở. Đó là chưa kể trình độ chuyên môn của một bộ phận công chức Tư pháp - hộ tịch cấp xã còn hạn chế, nhất là các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn; hay còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại sự chỉ đạo của cấp trên, do đó, việc tham mưu thực hiện nhiệm vụ quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở, tập huấn pháp luật, kỹ năng hòa giải cho hòa giải viên chưa chủ động, kịp thời, hiệu quả còn thấp...).
Với tính chất là hoạt động tự nguyện, tự quản của cộng đồng dân cư, nếu Nhà nước bao cấp hoàn toàn cho hoạt động này thì sẽ làm mất đi tính xã hội hóa, tính tự nguyện, tự quản, đi ngược lại với bản chất của hoạt động hòa giải ở cơ sở. Do đó, Luật hòa giải ở cơ sở quy định: Nhà nước có chính sách “tạo điều kiện, hỗ trợ cho hoạt động hòa giải ở cơ sở (Điều 5); Nhà nước hỗ trợ kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở để biên soạn, phát hành tài liệu; tổ chức bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ, kỹ năng về hòa giải ở cơ sở; Đối với những địa phương chưa tự cân đối được ngân sách thì ngân sách trung ương sẽ chi bổ sung cho các địa phương để hỗ trợ kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở (Điều 6). Thực hiện nhiệm vụ được giao trong Luật, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp đã phối hợp ban hành Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT/BTC-BTP ngày 30/7/2014 Quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở.
Tuy nhiên, sau 04 năm triển khai, quy định về ngân sách trung ương hỗ trợ các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách không thực hiện được bởi căn cứ quy định về phân cấp thực hiện ngân sách tại Luật ngân sách nhà nước. Hằng năm, Bộ Tài chính đều có văn bản hướng dẫn và đề nghị các địa phương, trong đó có các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách chủ động bố trí kinh phí thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở theo quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở trong phạm vi dự toán ngân sách được trung ương giao. Trên cơ sở hướng dẫn của Bộ Tài chính về kinh phí, Bộ Tư pháp đã đề nghị các cơ quan tư pháp địa phương (Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, công chức Tư pháp - hộ tịch) căn cứ kế hoạch thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở chủ động tham mưu, đề xuất Ủy ban nhân dân cùng cấp bố trí nguồn kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở trong phạm vi ngân sách của địa phương được giao; đồng thời có giải pháp lồng ghép các hoạt động để sử dụng có hiệu quả nguồn lực, khuyến khích tổ chức, cá nhân đóng góp, hỗ trợ cho hoạt động hòa giải ở cơ sở; bảo đảm thực hiện đúng, đầy đủ các quy định pháp luật về kinh phí hỗ trợ hoạt động của tổ hòa giải và mức chi thù lao theo vụ, việc cho hòa giải viên đã ban hành
[2]. Song kinh phí dành cho công tác hòa giải ở cơ sở còn rất hạn hẹp, chủ yếu được bố trí chung trong kinh phí phổ biến, giáo dục pháp luật nên chủ yếu phục vụ hoạt động tập huấn lồng ghép với hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật chung, nội dung về hướng dẫn kỹ năng, nghiệp vụ cho hòa giải viên hay việc xây dựng, cung cấp tài liệu cần thiết nhằm nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho hòa giải viên gần như không thực hiện được.
Việc tổ chức bồi dưỡng kiến thức pháp luật và phổ biến kinh nghiệm thực tiễn, đào tạo kỹ năng hòa giải, cung cấp tài liệu pháp luật, tài liệu nghiệp vụ cho hòa giải viên ở một số địa phương chưa được thực hiện thường xuyên và kịp thời. Bên cạnh đó, nội dung tập huấn vẫn chưa chú trọng bồi dưỡng, trao đổi về kỹ năng hòa giải, phương pháp tập huấn, bồi dưỡng chậm được đổi mới, chủ yếu vẫn sử dụng phương pháp truyền thống (báo cáo viên thuyết trình, đối tượng được tập huấn tiếp thu) nên hiệu quả vẫn chưa cao.
2.2. Phối hợp giữa cơ quan Tư pháp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác hòa giải cơ sở
Sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong công tác hòa giải ở cơ sở chưa được thực hiện một cách thường xuyên và thiếu sự chủ động. Một số địa phương, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên chưa nhận thức đầy đủ về vai trò nòng cốt của mình trong công tác hòa giải. Đặc biệt, trong việc bầu, công nhận hòa giải viên, sự phối hợp giữa cơ quan Tư pháp và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở một số nơi chưa được thể hiện rõ nét, dẫn đến lúng túng hoặc thực hiện chưa đúng quy định của pháp luật về quy trình, thủ tục bầu, công nhận hòa giải viên. Cụ thể, ở một số nơi, hòa giải viên chỉ do Mặt trận Tổ quốc giới thiệu, công chức tư pháp - hộ tịch xã tham mưu cho Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn ra quyết định công nhận mà không tổ chức họp nhân dân hoặc phát phiếu lấy ý kiến chủ hộ gia đình về việc bầu hòa giải viên, làm giảm tính dân chủ trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở.
2.3. Về tổ chức hòa giải ở cơ sở và hòa giải viên
Thời gian qua, mặc dù được Đảng, Nhà nước và nhân dân quan tâm, tạo điều kiện duy trì, củng cố và phát triển nhưng nhìn chung tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống, thậm chí còn nhiều tồn tại, hạn chế, bất cập cần được khắc phục, cụ thể như sau:
Thứ nhất, chất lượng, hiệu quả hòa giải ở cơ sở chưa cao, không đồng đều, chưa đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống.
Thứ hai, nhiều mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở chưa được phát hiện hoặc được phát hiện nhưng chưa được hòa giải, hòa giải không kịp thời, hòa giải không thành.
Thứ ba, đội ngũ hòa giải viên thường xuyên biến động; tổ hòa giải ở một số nơi có những thời điểm không đủ hòa giải viên hoặc đủ số lượng nhưng không có hòa giải viên nữ, hòa giải viên là người dân tộc thiểu số theo quy định của Luật hòa giải ở cơ sở. Trong quá trình hòa giải, vẫn còn tình trạng hòa giải viên vi phạm quy định pháp luật về hòa giải ở cơ sở gây tác động tiêu cực đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, giảm chất lượng, hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở và tính nghiêm minh của pháp luật, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Thứ tư, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội chưa rõ nét; chưa huy động được đông đảo luật sư, luật gia trong hòa giải ở cơ sở; chưa gắn kết chặt chẽ giữa hoạt động hòa giải ở cơ sở với hoạt động trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật, luật sư, phổ biến giáo dục pháp luật. Trình độ học vấn, kiến thức pháp luật, kỹ năng, nghiệp vụ hòa giải của đa số hòa giải viên còn thấp (
trong số 651.215 hòa giải viên chỉ có 28.006 người có trình độ chuyên môn Luật, chiếm tỷ lệ 4,3%). Đội ngũ hòa giải viên rất ít được cung cấp tài liệu, tập huấn, bồi dưỡng nâng cao kiến thức pháp luật, kỹ năng hòa giải.
3. Nguyên nhân
Những hạn chế, tồn tại trên đây xuất phát từ các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
a) Về nhận thức
Cấp ủy, chính quyền, đoàn thể ở một số nơi và một bộ phận hòa giải viên nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, vai trò, ý nghĩa của công tác hòa giải ở cơ sở; chưa thường xuyên rà soát, có giải pháp củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ hòa giải viên. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận ở một số nơi chưa nhận thức rõ vai trò, vị trí nòng cốt của mình trong công tác hòa giải, nên chưa tham gia tích cực, chủ động vào việc củng cố, kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động hòa giải ở địa phương.
Bên cạnh đó, ở một số nơi, nhận thức của người dân về vị trí, vai trò của hòa giải ở cơ sở chưa cao nên người dân chưa chủ động, tích cực giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật phát sinh tại cơ sở bằng biện pháp hòa giải ở cơ sở.
b) Về thể chế, chính sách
Thể chế, chính sách về hòa giải ở cơ sở có chỗ chưa phù hợp; quản lý nhà nước còn bất cập, chưa thực sự hiệu quả. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận chưa thường xuyên, thiếu chủ động. Cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức, đoàn thể ở một số địa phương chưa thật sự quan tâm, chưa xác định hoặc xác định chưa đầy đủ, trọng tâm, trọng điểm phương hướng, nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch hành động cụ thể để thực hiện tốt công tác hòa giải ở cơ sở. Đầu tư, hỗ trợ kinh phí, cơ sở vật chất không đáng kể, không đồng đều, thiếu thống nhất; chưa huy động được nguồn lực từ các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đóng góp, hỗ trợ cho hòa giải ở cơ sở.
c) Về tổ chức, con người
Đội ngũ cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở, đội ngũ cán bộ, công chức tổ chức chính trị - xã hội được giao nhiệm vụ theo dõi, hướng dẫn công tác hòa giải ở cơ sở số lượng ít (trung bình mỗi Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, Uỷ ban nhân dân cấp xã chỉ có 01 công chức kiêm nhiệm thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở, gắn với triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật), phải đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ, lại chưa được chuẩn hóa. Năng lực của một bộ phận công chức nhất là ở cơ sở còn hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở, và từ đó ảnh hưởng tới chất lượng tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở.
Hiện nay các tỉnh, thành phố chưa có đội ngũ cán bộ nguồn có đủ năng lực thực hiện bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ cho hòa giải viên; chưa huy động được đội ngũ luật gia, luật sư, công chức, thẩm phán, hội thẩm nhân dân… tham gia hỗ trợ hòa giải viên trong hoạt động hòa giải ở cơ sở, dẫn đến việc bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ cho hòa giải viên chưa bài bản, thiếu hiệu quả.
d) Về các điều kiện bảo đảm
Việc hỗ trợ, trang bị tài liệu pháp luật để hòa giải viên tự nghiên cứu, tìm hiểu nâng cao năng lực hoạt động cũng như việc tổ chức tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng cho đội ngũ hòa giải viên còn rất hạn chế. Tài liệu pháp luật cũng như các tài liệu hướng dẫn kỹ năng hòa giải ở cơ sở cung cấp cho tổ hòa giải, hòa giải viên rất thiếu, chưa cập nhật và thiếu tính hệ thống.
Việc đầu tư kinh phí hỗ trợ cho công tác hòa giải ở cơ sở nói chung và thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ hòa giải viên hiện nay tại các địa phương không đồng đều, thiếu thống nhất, thiếu cơ chế đầu tư tổng thể, toàn diện từ Trung ương đến địa phương; không huy động được các tổ chức, cá nhân đóng góp, hỗ trợ tài chính, cơ sở vật chất cho công tác hòa giải ở cơ sở.
đ) Về các điều kiện khác
Ở một số tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, đặc biệt khó khăn, do địa bàn rộng, đi lại khó khăn, dân cư phân bố rải rác, khí hậu khắc nghiệt, trong khi số lượng tổ hòa giải không nhiều, lực lượng hòa giải viên lại mỏng dẫn đến hoạt động của các tổ hòa giải gặp nhiều khó khăn. Nhiều nơi điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, trình độ dân trí, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, còn tồn tại các hủ tục lạc hậu, nên việc thuyết phục người dân giải quyết tranh chấp phù hợp với quy định của pháp luật gặp không ít khó khăn.
Ngoài ra, do đặc điểm tâm lý “tốt khoe ra, xấu che lại”, sợ dư luận xã hội bàn tán và tư tưởng “đóng cửa bảo nhau”, “xấu chàng hổ ai” nên nhiều mâu thuẫn, tranh chấp, xích mích trong gia đình không được hòa giải kịp thời, đến mức quá căng thẳng hoặc gây tổn thương về mặt thể xác, tinh thần cho nhau thì tổ hòa giải mới biết và khi đó việc hòa giải gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí vụ việc có thể đã không thuộc phạm vi hòa giải (mà bị xử lý về mặt hình sự).
Bên cạnh đó
, sự phát triển của nền kinh tế thị trường cũng làm phát sinh nhiều mặt trái tác động đến cuộc sống, ảnh hưởng đến truyền thống tương thân, tương ái, “lá lành đùm lá rách”, tạo lối sống vị kỷ chỉ quan tâm đến bản thân, gia đình mình mà thờ ơ, bàng quan với cộng đồng; các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật thuộc phạm vi hòa giải trong nhân dân đang gia tăng, cả về số lượng và tính chất phức tạp của vụ việc.
2. Khả năng xã hội hóa hoạt động hòa giải ở cơ sở
Có thể thấy, xét về bản chất thì hoạt động hòa giải ở cơ sở chính là một hoạt động xã hội hóa công tác quản lý xã hội của Nhà nước khi huy động người dân (có đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của Luật hòa giải ở cơ sở) tham gia vào tổ hòa giải - tổ chức tự quản tại cộng đồng, để giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật phát sinh tại cộng đồng dân cư.
Hoạt động hòa giải ở cơ sở đòi hỏi phải có sự tham gia của cả hệ thống chính trị ở cơ sở: cấp ủy Đảng, chính quyền, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh..., qua đó xây dựng được một cộng đồng dân cư mà vai trò tự quản của người dân được tăng cường,
thực hiện được việc xã hội hóa hoạt động giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm pháp luật. Đây cũng là một xu hướng phát triển khách quan của xã hội, theo đó Nhà nước có thể từng bước giao cho nhân dân tự quản những gì họ có thể tự quản được.
Qua gần 5 năm thực hiện Luật hòa giải ở cơ sở và các văn bản hướng dẫn thi hành, thông qua hoà giải ở cơ sở, trung bình mỗi năm ở cơ sở hoà giải thành hơn một trăm nghìn vụ việc tức là giảm được bấy nhiêu vụ việc mà các cơ quan có thẩm quyền sẽ phải giải quyết. Trong trường hợp phải yêu cầu Toà án công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án, thì quá trình tố tụng cũng được rút ngắn rất nhiều, các chi phí, lệ phí tố tụng (lệ phí là 300.000 đồng, trừ trường hợp được được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng lệ phí Tòa án) mà đương sự phải chịu sẽ giảm đi đáng kể so với trường hợp mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật không giải quyết được bằng con đường hoà giải trước khi khởi kiện đến Tòa án. Trên thực tế đã có những vụ án dân sự kéo dài hàng chục năm, trải qua nhiều lần xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm rồi lại quay trở về điểm xuất phát (sơ thẩm lại), trong khi lợi ích mà bên thắng kiện giành được có khi không đủ để bù đắp chi phí tố tụng, chưa kể đến công việc bị ảnh hưởng, thu nhập bị giảm sút, tâm lý mệt mỏi căng thẳng do luôn phải lo nghĩ đến vụ việc, thực hiện các yêu cầu theo thủ tục tố tụng của Tòa án.
Bên cạnh việc góp phần hạn chế những khó khăn, tốn kém nêu trên trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, hòa giải thành còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành án. Các quyết định của Toà án công nhận sự thoả thuận hòa giải thành ngoài Tòa án thường sẽ được thi hành dứt điểm, bởi trong trường hợp này các đương sự đã tự nguyện thoả thuận với nhau về cách thức giải quyết vụ việc nên họ thường sẽ tự giác, có trách nhiệm thực hiện các cam kết của mình mà không cần sự tác động của cơ quan nhà nước. Việc khiếu nại, kháng nghị quyết định công nhận sự thoả thuận của đương sự cũng vì thế mà ít xảy ra.
Ngoài ra, khi hoà giải, các hoà giải viên đều phải vận dụng các quy định pháp luật hiện hành để giải thích, hướng dẫn, giúp đỡ các bên tranh chấp, mâu thuẫn, vi phạm pháp luật hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình để từ đó có xử sự phù hợp với quy định pháp luật. Trong trường hợp tranh chấp, mâu thuẫn, vi phạm pháp luật phát sinh do các bên không hiểu biết pháp luật, nên lầm tưởng rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm, hoặc cho rằng hành vi của mình là đúng pháp luật thì sẽ được hòa giải viên giải thích pháp luật một cách cặn kẽ. Đây là hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật trực tiếp cho người dân thông qua vụ việc cụ thể và xét ở một khía cạnh nào đó thì đây cũng chính là
xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 5 Luật hòa giải ở cơ sở quy định “
khuyến khích tổ chức, cá nhân đóng góp, hỗ trợ cho hoạt động hòa giải ở cơ sở.”. Tại Điều 3 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP cũng đã hướng dẫn cụ thể như sau:
“
1. Tổ chức, cá nhân đóng góp, hỗ trợ cho công tác hòa giải ở cơ sở được Nhà nước cung cấp thông tin miễn phí về chính sách, pháp luật liên quan; được khen thưởng khi có đóng góp, hỗ trợ tích cực cho công tác hòa giải ở cơ sở theo quy định tại Điểm d Khoản 1, Điểm d Khoản 2, Điểm d Khoản 3 Điều 4 của Nghị định này.
2. Tổ chức của Hội Luật gia Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp khác về pháp luật, tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật hỗ trợ tài liệu phục vụ hoạt động hòa giải ở cơ sở; phổ biến pháp luật về hòa giải ở cơ sở; hỗ trợ tổ chức tập huấn kiến thức pháp luật, nghiệp vụ cho hòa giải viên; tạo điều kiện cho thành viên, hội viên của tổ chức mình tham gia hòa giải ở cơ sở thì được khen thưởng theo quy định tại Điểm d Khoản 1, Điểm d Khoản 2, Điểm d Khoản 3 Điều 4 của Nghị định này.”
Cũng theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Luật hòa giải ở cơ sở, thì một trong các điều kiện cần và đủ để được bầu làm hòa giải viên là “có hiểu biết pháp luật”. Bởi dưới tác động của mặt trái của nền kinh tế thị trường, các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật có xu hướng ngày càng tăng, nội dung phức tạp, không chỉ còn là trộm cắp vặt hoặc tranh chấp nhau bờ rào, lối đi... đặt ta yêu cầu đối với hòa giải viên không chỉ về kỹ năng vận động, thuyết phục mà phải có sự am hiểu kiến pháp pháp luật nhất định, nói cách khác là hòa giải phải bảo đảm cả tình và lý. Tuy nhiên, theo thống kê của Bộ Tư pháp năm 2017 thì
trong số 651.215 hòa giải viên chỉ có 28.006 người có trình độ chuyên môn Luật, chiếm tỷ lệ 4,3%. Việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho số lượng đông đảo hàng trăm nghìn hòa giải viên nêu trên không thể thực hiện được trong một sớm một chiều mà cần cả một quá trình lâu dài; và nội dung kiến thức pháp luật cung cấp cũng không thể toàn bộ các lĩnh vực giống như đào tạo sinh viên chuyên ngành Luật mà chủ yếu là cung cấp phương pháp, cách tiếp cận vấn đề để khi gặp vụ việc cụ thể, hòa giải viên biết mình cần phải làm gì, xác định, tìm kiếm nội dung pháp luật liên quan đến vụ việc và trong trường hợp gặp khó khăn, vướng mắc cần phải tìm đến ai, làm như thế nào? Có thể có một số nội dung pháp luật liên quan trực tiếp, trên thực tế thường xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn sẽ được cung cấp cho hòa giải viên nhưng chỉ ở những nội dung cơ bản, mang tính khái quát chung; tình huống nêu ra chỉ là “mẫu” để tham khảo thêm. Chính vì vậy, một trong các nhiệm vụ, giải pháp chỉ đạo điểm được đề xuất trong Đề án “Nâng cao năng lực đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở giai đoạn 2018-2022” là làm sao có cơ chế, chính sách vận động, thuyết phục đội ngũ luật sư, luật gia, người đang và đã từng là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, chấp hành viên, thẩm tra viên trong cơ quan tiến hành tố tụng, cán bộ, công chức, viên chức có đủ tiêu chuẩn đang thường trú ở cơ sở tham gia làm hòa giải viên hoặc tham gia các hình thức hòa giải khác trong khi thù lao hỗ trợ cho từng vụ việc hòa giải tối đa là 200.000 đồng và mức chi này có địa phương thực hiện được, có địa phương không có kinh phí để chi.
Về vấn đề kinh phí, trên thực tế việc huy động nguồn lực đóng góp từ bên ngoài này cho hoạt động hòa giải ở cơ sở trong thời gian qua là chưa thực hiện được do chưa có chính sách cụ thể để thu hút tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia đóng góp, hỗ trợ cho công tác hòa gảii ở cơ sở. Mặc dù khoản 1 Điều 3 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP nêu trên đã có quy định song còn mang tính định hướng, trong khi đó, hòa giải ở cơ sở là hoạt động tự quản ở cộng đồng, vì cộng đồng, hướng đến lợi ích của cộng đồng, của nhân dân ở tại cơ sở, là hoạt động không thu phí, không đưa lại lợi ích tức thời trước mắt. Vậy nên, vấn đề đặt ra cho cơ quan nhà nước quản lý về hòa giải ở cơ sở cần sớm nghiên cứu có những chính sách cụ thể hơn để thu hút sự quan tâm, đầu tư của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân cho công tác này thời gian tới.
Lg. Vũ Nguyên
[1] Tại tỉnh Bình Dương, việc phổ biến, tuyên truyền Luật còn được lồng ghép vào các buổi sinh hoạt của chi hội đoàn thể, sinh hoạt câu lạc bộ trợ giúp pháp lý, các buổi hòa giải. Tại thành phố Hải Phòng, nhằm tuyên truyền Luật hòa giải ở cơ sở trên các phương tiện truyền thông, Ủy ban nhân dân thành phố đã chỉ đạo Báo Hải phòng, Sở Tư pháp nâng cao chất lượng Tờ Phụ trương “Pháp luật thành phố Hải Phòng”, trong đó duy trì ổn định chuyên mục “Câu chuyện hòa giải” lấy nội dung từ người thực, việc thực đã được hòa giải thành trong thực tế, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong nhân dân. Tại Cần Thơ, việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật hòa giải ở cơ sở và thực hiện công tác hòa giải trong đồng bào giáo dân, họ đạo, được gắn với mô hình 03 không “Không tội phạm, không ma túy, không mại dâm”. Tại Quảng Ninh, ngay sau khi Luật được ban hành, đã tổ chức cuộc thi “Tìm hiểu Luật hòa giải ở cơ sở” để chuyển tải các quy định của Luật tới người dân; hay tại thành phố Hà Nội, Sở Tư pháp đã phối hợp với Báo Pháp luật và xã hội xây dựng riêng chuyên mục hòa giải ở cơ sở, đăng nhiều tin, bài viết trong việc tuyên truyền về công tác hòa giải ở cơ sở.
[2] Theo báo cáo sơ kết 03 năm thực hiện Luật hòa giải ở cơ sở, đã có 57/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành văn bản quy định cụ thể nội dung chi, mức chi cho công tác hòa giải ở cơ sở nhưng 63/63 tỉnh, thành phố chưa bảo đảm 100% cấp xã thực hiện chi đúng, đủ theo quy định thù lao vụ, việc hòa giải cho hòa giải viên.