Liên kết website

Nâng cao chất lượng hòa giải các vụ việc ly hôn tại cơ sở

17/05/2019

Theo số liệu tổng hợp thì từ ngày 01-7-2008 đến ngày 31-7-2018, Tòa án nhân dân các cấp trên cả nước đã thụ lý theo thủ tục sơ thẩm 1.422.067 vụ án ly hôn, giải quyết 1.384.660 vụ, đạt tỷ lệ 97,4%, còn lại 37.407 vụ đang trong quá trình giải quyết[1]. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến ly hôn như ngoại tình, thiếu kỹ năng xây “tổ ấm”, kinh tế, con cái hay xung đột với bố mẹ hai bên… và hàng trăm, hàng nghìn lý do khác nữa mà chỉ những người trong cuộc mới hiểu rõ hơn ai cả. Có những trường hợp giải pháp ly hôn là cần thiết và đúng đắn (như ngoại tình, bạo lực gia đình kéo dài, triền miên), song cũng có không ít trường hợp vợ chồng ly hôn là những quyết định vội vàng, thiếu bình tĩnh… trong lúc “cả giận mất khôn” khi mâu thuẫn hoàn toàn có thể hóa giải được nếu được giúp đỡ, cảm thông, chia sẻ. Và dù trong bất cứ trường hợp nào, thì ly hôn cũng để lại hậu quả không chỉ cho gia đình, mà cho cả xã hội. Chính vì vậy, trong bất kỳ trường hợp nào, nhất là với những trường hợp ly hôn không thực sự là giải pháp cần thiết, đúng đắn thì việc hòa giải thành có một ý nghĩa rất quan trọng. Việc hòa giải có thể được thực hiện trước khi các bên đưa vụ việc ra tòa án (hòa giải bởi hòa giải viên ở cơ sở, dòng họ, người thân…) và hòa giải theo thủ tục bắt buộc tại Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Cơ sở pháp lý của việc áp dụng hòa giải ở cơ sở trong các vụ việc ly hôn đó là:
(i) Điểm c khoản 1 Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP ngày 27/02/2014 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hòa giải ở cơ sở quy định hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với: “c) Tranh chấp phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình như tranh chấp phát sinh từ quan hệ giữa vợ, chồng; quan hệ giữa cha mẹ và con; quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa anh, chị, em và giữa các thành viên khác trong gia đình; cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; ly hôn;
(ii) Điều 52 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 về khuyến khích hòa giải ở cơ sở quy định: “Nhà nước và xã hội khuyến khích việc hòa giải ở cơ sở khi vợ, chồng có yêu cầu ly hôn. Việc hòa giải được thực hiện theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở.”

Theo quy định trên có thể thấyhòa giải ly hôn ở cơ sở không phải là thủ tục bắt buộc khi ly hôn mà chỉ là sự khuyến khích thực hiện của Nhà nước. Tuy nhiên, xuất phát từ mục đích nhân văn của hòa giải cơ sở được thực hiện nhằm hàn gắn lại quan hệ vợ chồng đang ở bờ vực chia ly nên thực tế thời gian qua khi thụ lý các vụ việc ly hôn, thẩm phán thường hướng dẫn các bên thực hiện hòa giải ở cơ sở. Hai bên vợ chồng có quyền thỏa thuận lựa chọn việc có áp dụng thủ tục này hay không. Trường hợp các bên không đồng ý hòa giải ở cơ sở thì thấm phán thực hiện các bước theo quy trình tố tụng quy định.

Bên cạnh đó, hòa giải ở cơ sở việc ly hôn cũng có thể được tiến hành khi một trong các bên vợ chồng gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc trực tiếp đề nghị hòa giải viên hòa giải.

Thực tiễn hoạt động hòa giải ở cơ sở thời gian qua cho thấy, kết quả hòa giải ở cơ sở việc ly hôn được coi là: (i) hòa giải thành nếu các bên vợ chồng thống nhất hóa giải mâu thuẫn, trở về đoàn tụ không nộp đơn lên tòa án có thẩm quyền; và (ii) hòa giải không thành trong trường hợp ngược lại.

Trong trường hợp hòa giải không thành, hòa giải viên chỉ hướng dẫn việc nộp đơn xin ly hôn ra tòa án.

Theo quy định tại Chương XXXIII BLTTDS năm 2015 thì kết quả hòa giải thành ở cơ sở có thể được Tòa án công nhận. Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành của Tòa án có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm và được thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự.
Trên cơ sở quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự nêu trên và hướng dẫn tại Công văn số 1503/BTP-PBGDPL ngày 05/5/2017 của Bộ Tư pháp V/v hướng dẫn thực hiện thủ tục yêu cầu Tòa án công nhận kết quả, tại các địa phương đã tích cực triển khai bồi dưỡng, tập huấn cho hòa giải viên. Tuy nhiên, tính đến thời điểm cuối năm 2018, mới chỉ có 03 vụ việc hòa giải thành được tòa án công nhận[2], trong đó không có vụ việc nào về ly hôn.
Cũng theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao về thực hiện thí điểm hòa giải, đối thoại tại Tòa án, thì ngay sau khi nhận đơn khởi kiện vụ án dân sự và tài liệu, chứng cứ kèm theo (gọi tắt là hồ sơ vụ việc, trong đó có việc về ly hôn), Bộ phận hành chính - tư pháp của Tòa án sẽ ghi vào sổ nhận đơn và chuyển đơn khởi kiện cho Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án, trừ những trường hợp không được hòa giải, đối thoại theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự hoặc khi nộp đơn khởi kiện, có ý kiến không đồng ý hòa giải, đối thoại tại Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
Trường hợp qua hòa giải, các bên thỏa thuận được với nhau về các vấn đề phải giải quyết và nếu có yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án. Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết việc dân sự về yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án theo quy định tại Chương XXXIII Bộ luật Tố tụng dân sự.
Trường hợp không có yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án thì hồ sơ vụ việc, Biên bản hòa giải thành được chuyển cho Tòa án để trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện.
Trường hợp ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn mà sau khi hòa giải, vợ, chồng không đồng ý đoàn tụ nhưng thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và yêu cầu Tòa án công nhận thì Hòa giải viên giải thích cho họ sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện thành đơn yêu cầu Tòa án công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn. Đồng thời, Hòa giải viên báo cáo Giám đốc Trung tâm phân công Thẩm phán tham gia chứng kiến việc lập biên bản và ký tên vào Biên bản hòa giải đoàn tụ không thành, Biên bản thuận tình ly hôn, thỏa thuận việc nuôi con và chia tài sản do Hòa giải viên lập.
Hòa giải viên thông báo cho Giám đốc Trung tâm, chuyển ngay hồ sơ vụ việc và các biên bản cho Tòa án. Tòa án xem xét nếu hồ sơ đầy đủ theo quy định tại Chương XXIII và Chương XXVIII của Bộ luật Tố tụng dân sự thì Thẩm phán (đã được phân công tham gia chứng kiến và ký tên vào các biên bản) thụ lý ngay việc dân sự. Sau khi thụ lý, Thẩm phán kiểm tra hồ sơ nếu xét thấy việc thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội và hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập các biên bản mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán phải ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo quy định tại Điều 212 Bộ luật Tố tụng dân sự (Thẩm phán không tiến hành hòa giải lại).
Vấn đề đặt ra là nếu sau khi hòa giải, vợ, chồng không đồng ý đoàn tụ nhưng thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn thì Biên bản hòa giải đoàn tụ không thành, Biên bản thuận tình ly hôn, thỏa thuận việc nuôi con và chia tài sản do hòa giải viên ở cơ sở lập có giá trị pháp lý như của hòa giải viên của Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án thực hiện hay không? Và nếu việc thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội thì có được Tòa án thụ lý, xem xét và công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo quy định tại Điều 212 Bộ luật Tố tụng dân sự (Thẩm phán không tiến hành hòa giải lại) hay không?
Theo quan điểm cá nhân thì điều này hoàn toàn thực hiện được. Bởi xét về cơ sở pháp lý (Luật hòa giải ở cơ sở và các văn bản hướng dẫn thi hành, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 ở một khía cạnh nào đó cũng có thể coi đây là một trường hợp hòa giải thành – các bên thống nhất được mâu thuẫn, tranh chấp khi ly hôn.
Chiều ngày 08/4/2019, tại trụ sở TANDTC đã diễn ra Lễ ký kết Chương trình phối hợp Phổ biến, giáo dục pháp luật và hòa giải ở cơ sở giữa Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp giai đoạn 2019 – 2023. Một trong các nội dung phối hợp về công tác hòa giải ở cơ sở được xác định là phối hợp chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện quy định về việc công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; nghiên cứu, xây dựng các tài liệu nghiệp vụ về hòa giải tranh chấp dân sự và các tài liệu hướng dẫn quy trình, thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án.
Theo đó, để việc hòa giải các vụ việc ly hôn hiệu quả, thiết thực, cần thiết: (i) hai ngành cần sớm nghiên cứu, hướng dẫn trình tự, thủ tục công nhận hòa giải thành ngoài tòa án, trong đó có thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn do hòa giải viên ở cơ sở hòa giải và nên đươc thể hiện thông qua hình thức của quy phạm pháp luật; (ii) Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng bảo đảm việc hòa giải ly hôn đúng quy định của pháp luật, cần tăng cường tập huấn bồi dưỡng kiến thức pháp luật về hôn nhân gia đình, hướng dẫn về kỹ năng hòa giải việc ly hôn để bảo đảm cho các trường hợp thuận tình ly hôn thì thỏa thuận nuôi con, chia tài sản được thực hiện đúng quy định; (iii) Bộ Tư pháp cần tích cực phối hợp với Trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong chỉ đaọ, phối hợp tăng cường vai trò của Hội phụ nữ cấp cơ sở trong công tác hòa giải ở cơ sở, giải quyết kịp thời các mâu thuẫn khi mới phát sinh./.
 
[1] Xem http://www.sggp.org.vn/hon-1-trieu-vu-ly-hon-trong-10-nam-gan-day-co-nguyen-nhan-la-bao-luc-gia-dinh-562012.html
[2] Xem thêm Báo cáo của Bộ Tư pháp về việc thực hiện yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành năm 2018
Các tin đã đưa ngày: