Liên kết website

Một số vấn đề về bối cảnh, yêu cầu và quan điểm của công tác giáo dục pháp luật cho người lao động trong các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay

23/12/2022

1. Về bối cảnh hiện nay
1.1. Về bối cảnh quốc tế và khu vực 

Trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo, tình hình quốc tế, khu vực tiếp tục biến đổi, phức tạp, khó lường; thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen, tác động, ảnh hưởng trên nhiều mặt đến đất nước. Hòa bình, hợp tác, liên kết và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, nhưng cạnh tranh địa chính trị, địa kinh tế và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn gay gắt và ngày càng phức tạp, trực diện và quyết liệt hơn, tác động đến an ninh, phát triển kinh tế toàn cầu, đặt ra nhiều thách thức về vấn đề phát triển kinh tế, xã hội, chính trị, lợi ích của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp; các thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, an toàn thông tin, an ninh mạng và tội phạm ngày càng gia tăng. 
Khu vực ASEAN đang nổi lên là một khu vực kinh tế năng động. Việc hình thành cộng đồng ASEAN đã tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển của thị trường lao động các nước thành viên; mở rộng sân chơi cạnh tranh mà ở đó có nhiều thời cơ mới song cũng nhiều thách thức hơn. Cạnh tranh về nguồn nhân lực chất lượng cao diễn ra mạnh mẽ hơn trên bình diện thế giới, khu vực và quốc gia. Bên cạnh những yếu tố thuận lợi, nền kinh tế thế giới nói chung và từng quốc gia, vùng lãnh thổ nói riêng đều tiềm ẩn những yếu tố bất lợi như tranh chấp sự ảnh hưởng và quyền lực lãnh thổ, tài nguyên, chiến tranh thương mại và các vấn đề mang tính toàn cầu như khủng hoảng kinh tế theo chu kỳ, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, đặc biệt dịch bệnh covid-19 kéo dài, diễn biến phức tạp với các chủng mới, thiên tai, biến đổi khí hậu và nước biển dâng, tình hình nội chiến diễn ra ở nhiều nước trên thế giới...
1. 2. Về bối cảnh trong nước
Ở trong nước, chúng ta được kế thừa thành tựu của hơn 30 năm đổi mới, thế và lực của đất nước ngày càng lớn mạnh; tình hình chính trị, xã hội ổn định; kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát; môi trường đầu tư, kinh doanh và năng lực cạnh tranh quốc gia được cải thiện; vị thế và uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao, chủ quyền quốc gia được bảo vệ vững chắc góp phần duy trì môi trường hòa bình phục vụ phát triển đất nước. Bên cạnh những kết quả tích cực, đất nước ta vẫn đang đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, tồn tại và hạn chế. Các vấn đề văn hóa, xã hội, môi trường đang tạo áp lực lớn đến phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng. Đời sống của một bộ phận dân cư còn khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng bị thiên tai; tình hình trật tự, an toàn xã hội, tội phạm trên một số địa bàn, lĩnh vực diễn biến phức tạp; sử dụng đất đai, tài nguyên còn nhiều lãng phí; tình trạng ô nhiễm môi trường ở nhiều nơi... 
Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Trước hết, liên kết kinh tế quốc tế tiếp tục được thúc đẩy sâu rộng. Nổi bật là việc ký và thực thi các hiệp định thương mại tự do (FTA); thúc đẩy thương lượng, ký hiệp định về những vấn đề mới như kinh tế số, thương mại điện tử…; xây dựng và thông qua những định hướng hợp tác dài hạn. Thứ hai, nội hàm hợp tác và liên kết kinh tế được điều chỉnh sâu sắc, gắn với phát triển bền vững, bao trùm và quá trình số hóa. Thứ ba, xu hướng điều chỉnh các chuỗi cung ứng, dịch chuyển các hoạt động đầu tư, kinh doanh được đẩy mạnh hơn song không đơn giản và dễ dàng. Tình hình này tác động nhiều chiều đến Việt Nam, nhất là khi nước ta bước vào giai đoạn hội nhập và liên kết sâu rộng. Chủ động, tích cực tham gia hiệu quả các liên kết kinh tế quốc tế tạo cơ hội giúp chúng ta tiếp tục đa dạng hóa thị trường, đối tác, thu hút nguồn lực để phát triển, tranh thủ các xu hướng lớn hiện nay, nhất là tại châu Á - Thái Bình Dương, nhằm phục hồi và tăng trưởng nhanh, bền vững. Việc đảm nhiệm vai trò Chủ tịch Hiệp hội các quốc gia Ðông - Nam Á (ASEAN) năm 2020, Chủ tịch Hội đồng Liên nghị viện ASEAN (AIPA) 2020 và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 giúp chúng ta phát huy tiếng nói trong các khuôn khổ đa phương, cùng các đối tác tham gia quá trình định hình các cấu trúc, xây dựng luật lệ kinh tế - thương mại phù hợp lợi ích chung. Việt Nam đã phối hợp Liên hiệp châu Âu (EU) hoàn thành phê chuẩn Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA); đưa EVFTA vào thực thi từ ngày 1-8-2020. Chúng ta cũng ký biên bản kết thúc đàm phán hiệp định FTA với Anh, nhằm tiếp tục thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư giữa hai nước. Là Chủ tịch ASEAN năm 2020, Việt Nam đã phối hợp các thành viên ASEAN và các đối tác thúc đẩy ký Hiệp định Ðối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), khẳng định quyết tâm giữ đà hợp tác và liên kết, củng cố niềm tin và tạo động lực cho phục hồi kinh tế khu vực. Việt Nam đang chủ động thúc đẩy thông qua Tầm nhìn Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) đến năm 2040 và nhiều sáng kiến quan trọng về ứng phó dịch Covid-19, phục hồi chuỗi cung ứng khu vực; đã cơ bản định hình mạng lưới gồm 17 FTA và các khuôn khổ hợp tác kinh tế, thương mại với các trung tâm kinh tế hàng đầu thế giới. Vị thế này sẽ tạo động lực giúp thực hiện các mục tiêu tăng trưởng, tiếp tục đổi mới toàn diện, đồng bộ, đưa đất nước vững bước tiến lên, hiện thực hóa những tầm nhìn và khát vọng phát triển trong giai đoạn chiến lược mới [1].
Trong những năm qua, nhất là giai đoạn 2010 - 2017, chuyển dịch lao động theo ngành ở nước ta đang diễn ra theo hướng hợp lý và tiến bộ: giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp (từ 49,5% năm 2010 xuống còn 40,3% năm 2017); tăng tỷ trọng lao động trong khu vực công nghiệp (từ 21% lên 25,7%) và dịch vụ (từ 29,5% lên 34%). Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành đã từng bước phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển kinh tế. Sự chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ đã làm tăng năng suất lao động: ngành nông, lâm, thủy sản giảm 1% lao động thì năng suất tăng 2,1%; ngành công nghiệp - xây dựng tăng 1% lao động làm tăng 8,89% năng suất lao động; tương tự, ngành dịch vụ tăng 1% lao động thì năng suất lao động tăng 16,1% [2]. 
Cùng với những gam màu xám của thế giới về đại dịch Covid-19, tại Việt Nam năm 2020, dịch Covid-19 cũng đã đặt ra nhiều thách thức mới nhưng cũng làm sâu sắc thêm những xu thế liên kết diễn ra những năm qua, đồng thời đẩy nhanh một số xu thế mới. Đại dịch covid 19 có diễn biến phức tạp đã tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất - kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp, nhất là trong lĩnh vực vận tải, du lịch và tiểu thương. Đặc biệt, các tiểu thương là nhóm có quy mô và nguồn vốn nhỏ, tập trung vào các lĩnh vực phục vụ tiêu dùng thiết yếu nên chịu tác động càng lớn. Khi xảy ra dịch bệnh, các chi phí phát sinh lớn và nguồn cung giảm sút dẫn đến ảnh hưởng rất mạnh đến doanh thu, có tháng giảm đến 70%. Có thể thấy, năm 2020 là năm chứng kiến số lượng doanh nghiệp rời khỏi thị trường lớn nhất. Theo số liệu thống kê mới nhất của Tổng cục Thống kê, trong tháng 11, cả nước có 2.771 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, 4.471 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, 1.941 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể. Lũy tiến, trong 11 tháng có gần 93,5 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: 44,4 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 59,7%; 33,6 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 11,7%; hơn 15,4 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 3,1%. Trung bình mỗi tháng có 8,5 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường [3]. Theo Tổng cục Thống kê, tính chung 2 tháng đầu năm 2021, có 33.600 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 18,6% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, có 21.600 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn (tăng 34%); 8.400 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể (giảm 10,7%); 3.600 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể (tăng 28,1%). Trung bình mỗi tháng, có 16,8 ngàn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường... [4].
Tuy nhiên, bên cạnh những khó khăn, thách thức đó, thế giới đang bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều động lực tăng trưởng như cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 làm cải tiến năng suất và năng lực sản xuất. Sự phát triển của nền kinh tế chia sẻ và xu hướng tăng cường ký kết các hiệp định thương mại đa phương và song phương của các nền kinh tế đã thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế thông qua việc tối ưu hóa nguồn lực, thúc đẩy lưu thông vốn và hàng hóa; tăng cường vốn đầu tư cơ sở hạ tầng và phát triển công nghệ. Xu thế này sẽ ảnh hưởng nhiều đến cầu lao động khi cơ cấu việc làm và yêu cầu về kỹ năng trình độ sẽ thay đổi nhanh chóng. 
Cùng với những thuận lợi, khó khăn nêu trên, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tác động mạnh mẽ, đa chiều đối với tất cả các quốc gia, dân tộc; tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ trong đời sống chính trị, kinh tế và xã hội của nước ta. Để chủ động đón nhận làn sóng, sự ảnh hưởng sâu rộng của cuộc cách mạng này đối với Việt Nam, ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư [5]. Theo đó, toàn bộ hệ thống chính trị và người dân phải chủ động, tích cực tham gia cuộc cách mạng, các cơ quan, tổ chức của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc… chuyển đổi số mạnh mẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận mọi chính sách, pháp luật thông qua môi trường mạng. 
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã xác định: “Trong những năm tới, đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” [6]. 
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã xác định: “Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là sự gương mẫu tuân theo pháp luật” [7]. 
Vai trò làm chủ của người dân được khẳng định như là mục tiêu, là động lực phát triển của xã hội. Tinh thần thượng tôn pháp luật ngày càng trở thành chuẩn mực trong ứng xử của người dân, hình thành nếp sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật, nhu cầu tham gia của người dân vào hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật ngày càng gia tăng. Người dân nói chung và NLĐ trong doanh nghiệp, các doanh nghiệp nói riêng đang đứng trước những cơ hội, thách thức. Trước tình hình, cơ hội và thách thức nêu trên, công tác GDPL đặt ra những vấn đề mới cần thay đổi về tư duy, nhận thức, nội dung, hình thức, phương pháp, cách tiếp cận để có thể đáp ứng được tốt hơn yêu cầu, bối cảnh mới, phù hợp với nhu cầu và lợi ích chính đáng của người dân, sự phát triển chung của xã hội. 
2. Yêu cầu đối với công tác giáo dục pháp luật cho người lao động trong các doanh nghiệp thời gian tới
Một là, đổi mới về tư duy, nhận thức về công tác GDPL nói chung và GDPL cho NLĐ trong doanh nghiệp nói riêng đáp ứng yêu cầu của thực tiễn
Về công tác GDPL nói chung cần tiếp tục nâng cao nhận thức về vai trò quan trọng và ý nghĩa to lớn của công tác GDPL trong thời kỳ mới, là nhiệm vụ xuyên suốt trong quá trình hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, đảm bảo quyền con người và quyền công dân; coi đó là một bộ phận không thể tách rời của công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng; góp phần đưa chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước thực sự đi vào cuộc sống trở thành ý thức, hành động của từng cá nhân, tổ chức trong xã hội; tăng cường và đổi mới toàn diện, sâu sắc sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền đối với công tác GDPL; nguyên tắc Nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong công tác GDPL, đồng thời cũng là trách nhiệm của toàn dân trong việc tìm hiểu, tuân thủ và chấp hành Hiến pháp, pháp luật; xác định trách nhiệm GDPL cho NLĐ không chỉ là trách nhiệm của nhà nước, của các cấp, các ngành mà là trách nhiệm của chính bản thân doanh nghiệp, NSDLĐ, công đoàn doanh nghiệp và đồng thời của chính bản thân NLĐ; đề cao tính chủ động, tự giác trong tìm hiểu, chấp hành pháp luật của NLĐ; đẩy mạnh xã hội hóa trong công tác GDPL, thu hút mọi nguồn lực của xã hội tham gia công tác này; xác định GDPL là tiền đề mang tính quyết định đến việc hình thành và nâng cao ý thức pháp luật cho mọi người, là một trong những biện pháp cơ bản có ý nghĩa chiến lược nhằm bồi dưỡng, xây dựng, hình thành nhân cách thế hệ con người mới, đáp ứng các yêu cầu của xã hội hiện tại và tương lai trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Về GDPL cho NLĐ trong doanh nghiệp, trên cơ sở đổi mới tư duy như công tác GDPL nói chung, GDPL cho NLĐ theo hướng tiếp cận quyền con người, quyền công dân, quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp của NLĐ. Tư duy trong tổ chức thực hiện GDPL cho NLĐ cần xuất phát từ nhu cầu của NLĐ, chứ không xuất phát từ ý chí áp đặt của các chủ thể GDPL; tham gia vào quá trình GDPL để đạt được mục đích, yêu cầu đề ra cần có sự chủ động, tích cực không chỉ của chủ thể GDPL mà còn của đối tượng GDPL. Bên cạnh đó, quá trình tổ chức GDPL luôn xuất phát từ nhu cầu và đặc điểm của NLĐ; nội dung, hình thức được xác định phù hợp, linh hoạt, sáng tạo và có trọng tâm, trọng điểm, ứng dụng mạnh mẽ CNTT, chuyển đổi số; gắn triển khai GDPL cho NLĐ với đánh giá hiệu quả qua các tiêu chí cụ thể; định kỳ đánh giá, kiểm tra, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất giải pháp khắc phục tồn tại, hạn chế, nâng cao hiệu quả công tác GDPL cho NLĐ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác này trong thời gian tới.
Hai là, hoàn thiện các quy định pháp luật, thể chế chính sách theo hướng đảm bảo rõ hơn quyền của NLĐ trong tiếp cận với pháp luật 
Ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành BLLĐ sửa đổi, bổ sung năm 2019 theo hướng cụ thể hóa và bảo đảm các quyền cho NLĐ đã được BLLĐ 2019 sửa đổi, bổ sung theo hướng tiệm cận và phù hợp hơn với các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản của ILO và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế, đảm bảo sự thống nhất, phù hợp với một số luật mới ban hành như: Bộ luật Hình sự năm 2015, Luật Doanh nghiệp năm 2015, Luật Đầu tư năm 2015, Luật Tố tụng dân sự năm 2015 và các luật chuyên ngành tách ra từ nội dung của BLLĐ như: Luật Việc làm năm 2013, Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Luật An toàn - Vệ sinh lao động năm 2015.
Bên cạnh đó nghiên cứu, rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật điều chỉnh về công tác GDPL, tiếp cận pháp luật của người dân như Luật PBGDPL, Luật tiếp cận thông tin, Luật hòa giải ở cơ sở và các văn bản hướng dẫn thi hành, Quyết định 619/2019/QĐ-TTg ngày 8/5/2017 quy định về xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật…tạo nên hành lang pháp lý vững chắc, thuận lợi, thống nhất trong đưa pháp luật tới người dân
Ba là, đổi mới về nội dung, hình thức, phương pháp GDPL phù hợp với nhu cầu của từng đối tượng thụ hưởng
Công tác GDPL trong thời gian tới phải đảm bảo được tính tập trung, có trọng tâm, trọng điểm, xuất phát từ thực tiễn, nhu cầu của người dân, NLĐ; nội dung được thông tin, giáo dục ngay từ khi là dự thảo văn bản pháp luật, phù hợp với nhu cầu của từng đối tượng, địa bàn, hướng mạnh về cơ sở, đặc biệt đối với nhóm đối tượng, địa bàn đang là điểm nóng về vi phạm pháp luật hoặc có nhiều vướng mắc về pháp luật. Đồng thời, đổi mới hình thức, mô hình trên nền tảng CNTT, chuyển đổi số đáp ứng kịp thời, đầy đủ, chính xác quyền tiếp cận thông tin pháp luật của người dân, tổ chức theo hướng chủ động, tích cực thích ứng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Giáo dục pháp luật nhằm nâng cao hiểu biết pháp luật, kỹ năng sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của mình bảo đảm; NLĐ không thụ động trong thụ hưởng kiến thức pháp luật do các chủ thể GDPL mang đến mà luôn có ý thức tự giác, chủ động trong tham gia vào quá trình GDPL; GDPL cho NLĐ không chỉ dừng ở việc biết, hiểu, tuân thủ pháp luật mà còn xây dựng niềm tin, tình cảm, tôn trọng đối với pháp luật, từ đó dần xây dựng một thói quen, một nét văn hóa trong tìm hiểu và chấp hành pháp luật, góp phần xây dựng văn hóa pháp lý, hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.
Bốn là, đổi mới về cơ chế, quy trình thực hiện GDPL
Trước bối cảnh hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của CNTT, sự phát triển nhanh, nóng của các doanh nghiệp và nền kinh tế, hội nhập, toàn cầu hóa đang diễn biến mạnh mẽ thì công tác GDPL cho NLĐ không thể mãi tiếp tục theo cơ chế hành chính, thiếu chủ động và linh hoạt như hiện nay. Hiện nay công tác GDPL đang thực hiện với vai trò nhà nước là nòng cốt: “Phổ biến, giáo dục pháp luật là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt” [49, khoản 1, Điều 3]. Vì vậy, cơ chế, quy trình tổ chức thực hiện GDPL đang nặng về hành chính, cơ quan cấp trên hướng dẫn cơ quan cấp dưới, địa phương thiếu tính chủ động trong chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức triển khai GDPL cho NLĐ trong doanh nghiệp; việc phát huy các tổ chức cá nhân ngoài hệ thống chính trị còn hạn chế. Trong thời gian tới cần, giảm bớt tính hành chính hóa, nâng cao tính chủ động, sáng tạo, đổi mới trong tổ chức thực hiện GDPL cho NLĐ trong doanh nghiệp, thu hút các nguồn lực từ xã hội, có cơ chế cụ thể thực hiện xã hội hóa công tác này, đảm bảo tính đa dạng và nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp của các chủ thể GDPL, góp phần thực hiện GDPL cho NLĐ được kịp thời, chính xác, phù hợp và hiệu quả.
Năm là, tham khảo kinh nghiệm một số nước trên thế giới về GDPL cho NLĐ
Trong quá trình hội nhập, hoạt động GDPL của Việt Nam nói chung và GDPL cho NLĐ nói riêng cũng phải từng bước tiếp cận đến những chuẩn mực quốc tế, hòa cùng xu hướng phát triển của thời đại; tiếp cận những giá trị tiến bộ được nhân loại thừa nhận một cách có chọn lọc phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện thực tế Việt Nam; tìm hiểu, lựa chọn những mô hình, cách làm hay, phương pháp tiếp cận, quan điểm và nhận thức về vấn đề này của các nước trong khu vực ASEAN và một số nước tiên tiến trên thế giới cho người dân, NLĐ để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp, tránh mất thời gian, công sức, thiệt hại nhiều mặt nếu như chúng ta không đi đúng hướng.
Sáu là, đảm bảo về nguồn lực, kinh phí, cơ sở vật chất, xã hội hóa công tác GDPL
Trước yêu cầu, bối cảnh hiện nay trước thực trạng về số lượng NLĐ quá lớn, dịch chuyển lao động từ nông thôn tới thành phố và từ từ tỉnh, thành phố này sang tỉnh, thành phố khác, doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác luôn biến động, thường xuyên di chuyển, chất lượng lao động thấp, nhận thức pháp luật hạn chế, điều kiện tiếp cận với pháp luật còn khó khăn; bản thân công tác GDPL từ các chủ thể thực hiện cho NLĐ còn chưa được thực hiện thường xuyên, kịp thời, có trọng tâm, trọng điểm và hiệu quả... Vì vậy, yêu cầu hết sức quan trọng hiện nay là số lượng và chất lượng nguồn nhân lực thực hiện công tác GDPL cần được nâng cao hơn nữa trong thời gian tới theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, am hiểu sâu về kiến thức pháp luật và vững vàng về kỹ năng, nghiệp vụ GDPL cho NLĐ; kinh phí dành cho công tác GDPL cần được tập trung ưu tiên, có trọng tâm, trọng điểm; thực hiện các chương trình, dự án cho NLĐ cần xác định rõ mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ, giải pháp, tổ chức phân công trách nhiệm thực hiện; cho nhóm đối tượng này, đặc biệt cho nhóm NLĐ ở các doanh nghiệp, các khu công nghiệp 
Xã hội hóa công tác GDPL cho NLĐ, thu hút đội ngũ luật sư, luật gia, những công chức đang công tác trong ngành liên quan tới pháp luật, những người có kiến thức pháp luật tham gia vào công tác GDPL cho NLĐ; thu hút hiệu quả các nguồn lực trong xã hội tham gia GDPL, giảm thiểu gánh nặng từ phía nhà nước. 
3. Quan điểm giáo dục pháp luật cho người lao động trong doanh nghiệp
Công tác GDPL cho NLĐ có vai trò quan trọng trong việc xây dựng con người có ý thức thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, nhất là trong công cuộc hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN. Công tác GDPL cho NLĐ trong doanh nghiệp là một bộ phận gắn liền với công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và là nhiệm vụ quan trọng của toàn hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Công cuộc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân thời gian tới đòi hỏi phải đẩy mạnh việc tổ chức thi hành pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, hình thành nếp sống theo Hiến pháp, pháp luật mà khâu đầu tiên, quan trọng là PBGDPL. Hiện nay hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang tác động lớn đến mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội. Vai trò làm chủ của người dân được khẳng định như là mục tiêu, là động lực phát triển của xã hội. Tinh thần thượng tôn pháp luật ngày càng trở thành chuẩn mực trong ứng xử của người dân, hình thành nếp sống và làm việc theo hiến pháp, pháp luật, nhu cầu tham gia của người dân vào hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật ngày càng gia tăng.
Bối cảnh và yêu cầu của tình hình mới đòi hỏi vị trí, vai trò của công tác GDPL cho doanh nghiệp phải được khẳng định rõ hơn trong việc nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức công dân, đóng góp vào sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững của đất nước. Để nâng cao hiệu quả công tác GDPL và hỗ trợ pháp lý trong lĩnh vực tài chính cho doanh nghiệp phải quán triệt các quan điểm sau:
Một là, GDPL là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, trong đó hài hòa trách nhiệm giữa nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, NLĐ, NSDLĐ, tổ chức đại diện cho NLĐ; trong đó nhà nước giữ vai trò nòng cốt; sự tham gia thực chất và đúng trách nhiệm của các tổ chức công đoàn; đặc biệt phát huy tính tự giác, chủ động trong tìm hiểu, tuân thủ pháp luật của NLĐ, trách nhiệm về vấn đề nội tại đối với doanh nghiệp của NSDLĐ.
Giáo dục pháp luật luôn được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, Kết luận số 80-KL/TW ngày 20/6/2020 của Ban Chấp hành Trung ương về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân đã xác định “phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị tư tưởng; là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị và toàn xã hội, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Đặc trưng của công tác GDPL là phối hợp, chỉ khi phối hợp công tác GDPL mới phát triển sâu rộng, lan tỏa; công tác GDPL không chỉ là trách nhiệm riêng của một ngành, một cấp mà luôn là trách nhiệm của hệ thống chính trị, trong đó nhà nước giữ vai trò nòng cốt và được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã khẳng định: “xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là sự gương mẫu tuân theo pháp luật, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa của cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị-xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc”. Xây dựng nhà nước pháp quyền được phát triển lên tầm cao mới nhà nước pháp quyền nhưng phải trong sạch, vững mạnh; tiếp tục đề cao cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Một trong những yếu tố quan trọng để xây dựng được nhà nước pháp quyền, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội đó chính là thượng tôn hiến pháp và pháp luật, đó chính là tổ chức thi hành pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống nâng cao ý thức tìm hiểu, tôn trọng và tuân thủ pháp luật của người dân.
Trên cơ sở đó, GDPL cho NLĐ cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị đặc biệt trong đó đặc biệt phát huy vai trò của các chủ thể GDPL, tổ chức chính trị xã hội, NLĐ, NSDLĐ, tổ chức đại diện cho NLĐ; sự tham gia thực chất và đúng trách nhiệm của các tổ chức công đoàn; đặc biệt phát huy tính tự giác, chủ động trong tìm hiểu, tuân thủ pháp luật của NLĐ, trách nhiệm trong giải quyết các vấn đề nội tại đối với doanh nghiệp của NSDLĐ.
Hai là, GDPL cho NLĐ phải được đặt trong mối quan hệ gắn kết chặt chẽ trong toàn bộ quá trình xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật
Nếu như trước kia chúng ta xác định GDPL là khâu đầu tiên của tổ chức thi hành pháp luật thì hiện nay theo tinh thần của Kết luận số 80/-KL/TW ngày 20/6/2020 của Ban Chấp hành Trung ương GDPL không chỉ là khâu đầu tiên của tổ chức thi hành pháp luật mà luôn được kết hợp chặt chẽ với toàn bộ quá trình xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật. GDPL sẽ khó thể đưa pháp luật vào cuộc sống hiệu quả nếu như không được đặt trong mối quan hệ trên. GDPL cần được bắt đầu ngay từ khâu dự thảo và lấy ý kiến của các văn bản pháp luật và từ đó sẽ có được sự phản hồi của người dân, đặc biệt là đối tượng chịu sự tác động của văn bản, qua đó sẽ góp phần đem lại hệ thống văn bản pháp luật minh bạch, khả thi, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp. Chỉ khi ngay từ khâu dự thảo văn bản đã được tổ chức GDPL, được truyền thông để người dân hiểu rõ hơn về những quy định pháp luật, đặc biệt những quy định pháp luật ảnh hưởng trực tiếp tới họ thì văn bản đó sau khi ban hành sẽ dễ đi vào cuộc sống, được đón nhận và tuân thủ.
Giáo dục pháp luật không chỉ là khâu đầu tiên mà được gắn bó chặt chẽ với toàn bộ quá trình tổ chức thi hành pháp luật. Tổ chức thi hành nghiêm minh, đề cao tính nêu gương của cán bộ, đảng viên, của người tổ chức thi hành pháp luật, của những người cầm cân nảy mực... sẽ là yếu tố tác động to lớn tới tình cảm, niềm tin của người dân vào pháp luật; từ có tình cảm, niềm tin, pháp luật tự nhiên đi vào cuộc sống.
Ba là, đổi mới nội dung, hình thức, cách thức triển khai phù hợp với đối tượng NLĐ 
Nội dung, phương pháp, hình thức GDPL là những thành tố cơ bản của hoạt động GDPL cho NLĐ và phải được thực hiện phù hợp với các yếu tố đặc thù của NLĐ, điều kiện, hoàn cảnh sống, làm việc của NLĐ. 
Nội dung GDPL cho NLĐ cần được thực hiện ngay từ khâu soạn thảo, xây dựng pháp luật, đặc biệt các văn bản liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của NLĐ. Các chủ thể GDPL cần xác định nội dung GDPL là giáo dục những vấn đề NLĐ cần, không phải giáo dục những vấn đề mình có theo suy nghĩ chủ quan. Nội dung GDPL xuất phát từ cuộc sống, từ nhu cầu của NLĐ, từ những vướng mắc khó khăn họ đang gặp phải; bên cạnh đó GDPL những vấn đề về quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của NLĐ để họ có thể biết, hiểu, chấp hành và bảo vệ quyền của mình.
Hình thức GDPL luôn được xác định trên cơ sở yếu tố đặc thù của NLĐ, điều kiện, môi trường sống và làm việc của NLĐ. Đặc trưng của NLĐ là làm việc ca kíp, công việc đơn điệu, nặng nhọc, môi trường độc hại... vì vậy lựa chọn hình thức GDPL phù hợp là yếu tố vô cùng quan trọng. Các hình thức đó cần đa dạng, phù hợp với từng độ tuổi, ngành nghề, lĩnh vực, khu vực, địa bàn NLĐ sinh sống, làm việc, cần ứng dụng CNTT, mạng xã hội, công nghệ số, trí tuệ nhân tạo trong GDPL.
Phương pháp GDPL cho NLĐ phải khoa học, hiện đại, gắn với sử dụng các thành tựu CNTT, phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của người nghe, khắc phục phương pháp truyền thụ một chiều. Các chủ thể GDPL luôn quan tâm trau dồi, rèn luyện kỹ năng, phương pháp theo hướng kết hợp hài hòa giữa thuyết trình với phương pháp tương tác với người nghe, nêu tình huống, đặt vấn đề; kết hợp trình bày các quy phạm pháp luật với các tình huống thực tiễn hoặc giả định; tăng cường đối thoại, thảo luận theo các chủ đề pháp luật... để kiến thức pháp luật được NLĐ hiểu hơn, nhớ lâu hơn và có thể áp dụng để tháo gỡ những khó khăn về mặt pháp lý của mình trong cuộc sống.
Bốn là, xác định NLĐ là trung tâm trong thụ hưởng trong công tác GDPL, thúc đẩy các cơ chế bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của NLĐ, giúp NLĐ dễ dàng, thuận lợi trong khai thác, sử dụng pháp luật để bảo vệ và thực thi các quyền, nghĩa vụ pháp lý. 
Đảm bảo quyền con người, quyền công dân, quyền được GDPL cho NLĐ, lấy NLĐ là trung tâm của hoạt động GDPL luôn là nguyên tắc, xác định là kim chỉ nam trong tư duy, nhận thức, trong mọi giải pháp, hành động của công tác GDPL. Từ việc xác định nguyên tắc này sẽ dẫn tới sự chuyển biến trong nhận thức, trong hành động của các cấp, các ngành, trong các kế hoạch triển khai công tác GDPL; sẽ có được sự quan tâm của các cấp ủy, chính quyền, tổ chức, cá nhân, NSDLĐ, cán bộ công đoàn, các chủ thể GDPL trong việc đưa pháp luật tới NLĐ. Được sự quan tâm của các cấp các ngành, các tổ chức, cá nhân, NLĐ sẽ được thụ hưởng pháp luật nhanh hơn, phù hợp hơn, hiệu quả hơn bởi họ sẽ được thụ hưởng nội dung phù hợp với nhu cầu của họ, hình thức, cách làm phù hợp trình độ nhận thức, điều kiện, môi trường sống, làm việc đặc thù của họ. Luôn lấy NLĐ làm trung tâm, những ý kiến, phản hồi của NLĐ về phương thức, cách làm, nội dung, những khó khăn của họ trong tiếp cận pháp luật sẽ phải được các cấp, các ngành, các chủ thể GDPL quan tâm giải quyết để GDPL thực sự là một “kênh” đưa pháp luật tới NLĐ dành được niềm tin, tình cảm, thuận theo và làm theo của NLĐ.
Năm là, GDPL luôn gắn với hiệu quả của công tác GDPL.
Hiệu quả hoạt động nhà nước, xã hội và cá nhân đang là vấn đề được quan tâm đặc biệt hiện nay. Ở nước ta, việc nghiên cứu, đánh giá vấn đề hiệu quả luôn được chú trọng, đặc biệt đối với các lĩnh vực pháp luật trong đó có GDPL. GDPL về bản chất sẽ mang lại những lợi ích to lớn cho xã hội do vậy cần thiết phải tính đến chất lượng, hiệu quả trên cả bình diện cá nhân, tổ chức và toàn xã hội. Vì vậy khi triển khai công tác GDPL luôn đặt vấn đề hiệu quả lên hàng đầu trong cả tư duy, nhận thức và tổ chức triển khai thực hiện. Hiệu quả GDPL được đặt ra trong tổng thể các yếu tố liên quan trực tiếp như: chất lượng, các yếu tố tác động, đảm bảo hiệu quả của loại hình hoạt động này. Nếu không đảm bảo chất lượng thì không thể có hiệu quả. Đồng thời, hiệu quả của PBGDPL không chỉ phụ thuộc vào chất lượng của PBGDPL. 
Ngô Quỳnh Hoa - Phó Vụ trưởng
Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tố Uyên (2020), “Lao đao vì covid-19, doanh nghiệp cần nguồn vốn để vực dậy”, http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/kinh-doanh/2020-12-04/lao-dao-vi-covid-19-doanh-nghiep-can-nguon-von-de-vuc-day-96310.aspx, truy cập ngày 07/01/2021. 
2. “Hội nhập kinh tế quốc tế - một điểm sáng trong công tác đối ngoại năm 2020” (2021), https://nhandan.com.vn/chinhtri/hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-mot-diem-sang-trong-cong-tac-doi-ngoai-nam-2020-631068, truy cập ngày 15/01/2021.
3. Nguyễn Thị Miền (2019), “Chuyển dịch lao động nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ ở Việt Nam: một số vấn đề và giải pháp”, http://lyluanchinhtri.vn/home/ index.php/thuc-tien/item/2831-chuyen-dich-lao-dong-nong-nghiep-sang-cong-nghiep-dich-vu-o-viet-nam-mot-so-van-de-va-giai-phap.html, truy cập ngày 16/9/2020.
4. Cục Trợ giúp pháp lý - Bộ Tư pháp, “Trợ giúp pháp lý là gì”, https://trogiupphaply.gov.vn/ ban-va-tgpl/tgpl-la-gi, truy cập ngày 20/10/2020. 
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2019), Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Hà Nội.
7. http://baochinhphu.vn/Tin-noi-bat/Toan-van-Nghi-quyet-Dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-XIII-cua-Dang/424239.vgp.
Các tin đã đưa ngày: