1.Một số vấn đề về khái niệm Giáo dục pháp luật
Theo nghĩa rộng, GDPL được coi là một bộ phận, một hệ thống con của hệ thống giáo dục nói chung, là một hoạt động có tính độc lập tương đối và có mối quan hệ tương hỗ với các hệ thống con khác, như kinh tế, chính trị, văn hóa, đạo đức... tạo nên một hệ thống các quan hệ xã hội tác động đến cá nhân, làm hình thành nên bản chất lịch sử - xã hội của con người. Quan niệm GDPL này xuất phát từ nghĩa rộng nhất của thuật ngữ GDPL, đồng nhất GDPL với quá trình xã hội hóa cá nhân trong môi trường có sự tác động, điều chỉnh của pháp luật và các loại chuẩn mực xã hội khác. Nhân cách con người được hình thành và phát triển là do tác động, ảnh hưởng của tổ hợp các nhân tố kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, pháp luật, đạo đức, phong tục, tập quán, lễ nghi... trong quá trình các cá nhân tham gia vào những quan hệ xã hội đó [1, tr. 28].
Giáo dục pháp luật theo nghĩa hẹp là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch của nhà giáo dục (chủ thể GDPL) bằng các hình thức và phương pháp giáo dục khác nhau tới người được giáo dục (đối tượng GDPL) để chuyển tải, truyền đạt những nội dung (thông tin, tri thức về pháp luật), nhằm đạt được những mục tiêu giáo dục (hình thành tri thức, tình cảm pháp luật, hình thành thói quen xử sự, lối sống phù hợp với quy định của pháp luật) [2, tr. 37].
Giáo dục pháp luật có mục đích riêng của mình, đó là hoạt động nhằm hình thành tri thức, tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với quy định của pháp luật.
Giáo dục pháp luật có nội dung riêng, đó là sự tác động định hướng với nội dung cơ bản là truyền tải tinh thần, nguyên tắc, vị trí, vai trò của pháp luật trong đời sống, trong đó, trọng tâm truyền tải các quy định pháp luật thực định.
Giáo dục pháp luật có nét đặc thù riêng về đối tượng, chủ thể, khách thể, hình thức và phương pháp giáo dục.
Như vậy, bản chất của GDPL là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định của các chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi, yêu cầu của hệ thống pháp luật hiện hành với các hình thức, phương pháp, công cụ, phương tiện đặc thù. Giáo dục là một quá trình, thể hiện ở tính mục đích, tính thường xuyên, có ý chí, kỹ năng, nghiệp vụ của các chủ thể GDPL nhằm tác động lên đối tượng được GDPL để dần từng bước hình thành kiến thức pháp luật, ý thức pháp luật cần thiết. Quá trình đó không chỉ đơn thuần chuyển tải các kiến thức, các thông tin cần thiết cho ai đó mà là cả một quy trình tác động có chủ đích, có phương pháp để những thông tin đó, kiến thức đó đến được với người được thụ hưởng và điều quan trọng nhất là để những kiến thức và thông tin đó tác động đến hiểu biết và nhận thức của đối tượng, làm thay đổi, từ chỗ chưa biết đến biết, từ chỗ biết ít hơn đến chỗ biết nhiều hơn, từ biết đến hiểu, từ hiểu đến tin tưởng, có tình cảm và tự giác tuân thủ, chấp hành; bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình, tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của người khác; dần sẽ hình thành ở đối tượng được giáo dục những hành vi tự giác trong tìm hiểu pháp luật, ứng xử không chỉ là tuân thủ, chấp hành pháp luật mà trở thành nét văn hóa, văn minh trong tìm hiểu, tuân thủ pháp luật. Do vậy, giáo dục là hoạt động bao gồm thông tin và phân tích, giải thích, vận động, thuyết phục kiên trì, bền bỉ, có hệ thống đối với đối tượng được giáo dục. Nó khác với hoạt động phổ biến kiến thức ở mức độ thông tin, mặc dù các hoạt động đó có mối quan hệ gần gũi với nhau về mục đích.
GDPL có sự tương đồng và khác biệt với hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp, tuyên truyền, PBGDPL, TGPL
Như đã phân tích ở trên, GDPL được tổ chức do các chủ thể có chức năng, nhiệm vụ GDPL tiến hành thông qua các phương pháp, hình thức đa dạng, linh hoạt, phù hợp với đặc điểm của NLĐ nhằm truyền tải kiến thức, nội dung, quy định pháp luật liên quan mật thiết đến cuộc sống, lao động, sinh hoạt hàng ngày từ đó hình thành nên ở họ ý thức pháp luật, tình cảm pháp luật và hành vi phù hợp với các yêu cầu của pháp luật hiện hành.
Tuyên truyền pháp luật có nội hàm hẹp hơn giáo dục pháp luật. Tuyên truyền pháp luật chỉ là một trong những hình thức cơ bản của GDPL. Giáo dục pháp luật bao gồm nhiều loại hình thức và có tính chất bền vững, thường xuyên, liên tục, mang tính chất là một quá trình trên các quy mô khác nhau, đa dạng về chủ thể và nội dung, phương pháp.
Tuyên truyền pháp luật là sự truyền tải thông tin về pháp luật cũng nhằm mục đích cung cấp thông tin pháp luật, vận động, tác động đến các đối tượng được tuyên truyền biết, hiểu và chấp hành pháp luật.
Phổ biến pháp luật cũng là một trong những hình thức của GDPL. Hiện nay ở Việt Nam xu hướng chung là có sự hợp nhất cả hai khái niệm đó: phổ biến, GDPL - một thuật ngữ được dùng chính thức trong văn bản pháp luật. Xét một cách toàn diện, tuyên truyền, phổ biến cũng thuộc phạm trù GDPL nói chung. Ngoài phương diện tuyên truyền, phổ biến pháp luật, phạm trù GDPL còn bao hàm các hình thức khác như giảng dạy, tập huấn, tiếp cận pháp luật ở các cấp độ nhất định.
Khái niệm hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp là thuật ngữ chưa được làm rõ trong các văn bản QPPL như: Nghị định số 66/2008/NĐ-CP ngày 28/5/2008 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp và Quyết định số 585/QĐ-TTg ngày 05/5/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp giai đoạn năm 2010 - 2014. Nghị định số 55/2019/NĐ-CP ngày 24/6/2019 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ra đời đã đưa ra khái niệm về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, theo đó, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp là việc Bộ, cơ quan ngang Bộ, chính quyền địa phương cấp tỉnh thực hiện các hoạt động xây dựng, quản lý, duy trì, cập nhật cơ sở dữ liệu về pháp luật; xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình hỗ trợ pháp lý nhằm nâng cao hiểu biết, ý thức và thói quen tuân thủ pháp luật, hạn chế rủi ro, vướng mắc pháp lý trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật.
Từ những khía cạnh trên, có thể hiểu theo nghĩa rộng, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp được hiểu là việc thực hiện các hoạt động của các tổ chức được Nhà nước giao chức năng thực hiện hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp dưới nhiều hình thức nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho doanh nghiệp hình thành ở họ ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật trong kinh doanh, góp phần bảo vệ pháp chế, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật.
Còn hiểu theo nghĩa hẹp thì hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp là công tác, lĩnh vực hoạt động, bao gồm tất cả các công đoạn phục vụ cho việc thực hiện hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp (xây dựng chương trình, kế hoạch; triển khai chương trình, kế hoạch hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp thông qua việc áp dụng các hình thức, nội dung hỗ trợ; hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện chương trình, kế hoạch hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp).
Trợ giúp pháp lý theo quy định tại Điều 2 Luật Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được TGPL theo quy định của Luật này, giúp người được TGPL bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc PBGDPL, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật.
Như vậy, GDPL, hỗ trợ pháp lý, TGPL đều có điểm chung nhằm đạt mục đích nâng cao sự hiểu biết, nhận thức, ý thức tìm hiểu pháp luật, chấp hành pháp luật, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật, bảo đảm quyền con người, quyền công dân của các đối tượng được giáo dục, hỗ trợ pháp lý và TGPL; góp phần nâng cao văn hóa pháp lý, hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.
Tuy nhiên, xuất phát từ khái niệm và đặc điểm của GDPL, hỗ trợ pháp lý, TGPL, ở ba lĩnh vực này có khác nhau cơ bản sau đây:
Một là, về quy định pháp luật điều chỉnh, nếu như GDPL được sự điều chỉnh bởi Luật PBGDPL năm 2012 thì TGPL được điều chỉnh bởi Luật TGPL năm 2017 và hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp được điều chỉnh bởi Nghị định số 55/2019/NĐ-CP ngày 24/6/2019 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Hai là, về chủ thể thực hiện GDPL, hỗ trợ pháp lý, TGPL. Nếu như chủ thể GDPL là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị thì chủ thể thực hiện hỗ trợ pháp lý hiểu theo nghĩa rộng bao gồm các tổ chức cơ quan nhà nước và các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật của các tổ chức chính trị - xã hội, chính trị xã hội nghề nghiệp. Còn nếu hiểu theo nghĩa hẹp, chủ thể thực hiện hỗ trợ pháp lý chỉ bao gồm các tổ chức được giao kinh phí và tổ chức bộ máy thực hiện các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Theo quy định của Nghị định số 55/2019/NĐ-CP ngày 24/6/2019 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa thì cơ quan thực hiện hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp bao gồm: Bộ, cơ quan ngang Bộ; chính quyền địa phương cấp tỉnh; tổ chức đại diện cho doanh nghiệp; cơ quan, tổ chức và cá nhân cung cấp dịch vụ hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa và các cơ quan, tổ chức và cá nhân khác có liên quan đến hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
Đối với chủ thể TGPL, theo quy định của Luật TGPL năm 2017 bao gồm Trung tâm TGPL nhà nước và tổ chức tham gia TGPL. Trung tâm TGPL nhà nước là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Tư pháp, do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập, có tư cách pháp nhân, có con dấu, trụ sở và tài khoản riêng.Tổ chức tham gia TGPL bao gồm tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL và tổ chức đăng ký tham gia TGPL. Tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL bao gồm tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật ký kết hợp đồng thực hiện TGPL với Sở Tư pháp theo quy định của Luật này. Tổ chức đăng ký tham gia TGPL bao gồm tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật đăng ký tham gia TGPL.
Ba là, về đối tượng thụ hưởng GDPL, hỗ trợ pháp lý, TGPL. Theo quy định của Luật PBGDPL, đối tượng thụ hưởng của GDPL là công dân Việt Nam, như vậy đối tượng của GDPL rất lớn, toàn bộ công dân Việt Nam, ai cũng có quyền được thông tin về pháp luật và có trách nhiệm chủ động tìm hiểu, học tập pháp luật. Nhà nước bảo đảm, tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền được thông tin về pháp luật.
Đối tượng thụ hưởng hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp và TGPL hẹp hơn. Theo quy định tại Điều 7 Luật TGPL, đối tượng được hưởng TGPL là người có công với cách mạng; người thuộc hộ nghèo; trẻ em; người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo; người thuộc một trong các trường hợp sau đây có khó khăn về tài chính; cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; người nhiễm chất độc da cam; người cao tuổi; người khuyết tật; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự; nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật phòng, chống mua bán người; người nhiễm HIV. Như vậy TGPL không có trách nhiệm thực hiện thông tin, TGPL cho mọi công dân Việt Nam mà hướng tới đối tượng người có công với đất nước, đối tượng có nhiều khó khăn, thiệt thòi trong xã hội.
Theo quy định tại Nghị định số 66/2008/NĐ-CP về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp thì đối tượng thụ hưởng là mọi doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, hình thức tổ chức, quy mô kinh doanh và lĩnh vực hoạt động. Luật Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2017 có quy định chính sách hỗ trợ pháp lý trực tiếp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo cơ hội để thụ hưởng những lợi ích của chính sách này.
Về hình thức thực hiện, bên cạnh một số hình thức chung trong việc đưa pháp luật tới đối tượng thụ hưởng, GDPL, hỗ trợ pháp lý, TGPL có những hình thức đặc thù riêng để áp dụng cho đối tượng của mình. GDPL được thực hiện thông qua 07 hình thức quy định tại Điều 11 Luật PBGDPL và các hình thức phù hợp khác với từng đối tượng, địa bàn phụ thuộc vào sự chủ động, sáng tạo của các chủ thể GDPL. Hình thức GDPL với mục đích cung cấp thông tin pháp luật, giáo dục, vận động người dân tìm hiểu, tuân thủ pháp luật, các hình thức thường mang tính chất phổ biến, tạo hiệu ứng lan tỏa rộng rãi, nhanh, kịp thời, chính xác, tạo nền tảng, mặt bằng kiến thức chung, nâng cao ý thức của người dân trong tìm hiểu, tuân thủ pháp luật.
Tuy nhiên, TGPL với đối tượng thụ hưởng đặc thù và tính chất của TGPL hỗ trợ giải quyết các vụ việc, tình huống pháp lý cụ thể nên được triển khai thông qua các hình thức riêng như: Tư vấn pháp luật (trực tiếp hoặc bằng văn bản); tham gia tố tụng; đại diện ngoài tố tụng; hòa giải; giúp đỡ thủ tục hành chính, khiếu nại... Như vậy, các hình thức TGPL theo quy định của Luật TGPL năm 2017 chủ yếu thiên về các hình thức hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng được TGPL khi đang có các vấn đề vướng mắc về pháp luật, tư vấn pháp luật, đại diện cho người được TGPL tại Tòa án, giúp đỡ thực hiện các thủ tục hành chính, khiếu nại cho đối tượng của mình là người có công và người có nhiều thiệt thòi trong xã hội.
Hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp cũng có thể sử dụng chủ yếu các hình thức như GDPL với mục đích tạo sự hiểu biết về pháp luật, hình thành lòng tin vào pháp luật của doanh nghiệp, từ đó nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội; hạn chế rủi ro, phát triển doanh nghiệp, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng... hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp thường tập trung vào các hình thức tư vấn, giải đáp pháp luật như giải đáp bằng văn bản; Giải đáp thông qua mạng điện tử; Giải đáp trực tiếp hoặc thông qua điện thoại; Giải đáp thông qua mạng lưới tư vấn viên pháp luật; các hình thức khác theo quy định của pháp luật. Đối với GDPL sử dụng đa dạng các hình thức và hình thức đó được lựa chọn phù hợp với các nhóm đối tượng, vùng miền; hỗ trợ pháp lý và TGPL sử dụng các hình thức chuyên biệt hơn đối với đối tượng của họ, đối tượng mang tính chất đặc thù.
Như vậy GDPL, tuyên truyền, PBGDPL, hỗ trợ pháp lý, TGPL đều có chung mục đích đối với đối tượng thụ hưởng của mình; nội dung, hình thức cũng có những điểm tương đồng. Tuy nhiên, mỗi một tính chất của từng loại hình, đặc điểm, đối tượng thụ hưởng, nội dung, hình thức thực hiện có những khác biệt. Tương đồng hay khác biệt nhưng GDPL, hỗ trợ pháp lý, TGPL đều thể hiện tính ưu việt, nhân văn trong việc đảm bảo quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, GDPL vẫn giữ vị trí vô cùng quan trọng so với các hình thức khác bởi ý nghĩa, vai trò, mục đích, hình thức, phương pháp, chủ thể GDPL, đối tượng GDPL... Một trong những điểm đặc biệt tạo nên vị trí quan trọng của GDPL trong đời sống xã hội đó chính là tính nhân văn của Đảng và Nhà nước đã thể hiện thấm đẫm trong thể chế, nhận thức và tổ chức thực hiện của công tác này; đó chính là trách nhiệm không chỉ của riêng các cấp, các ngành mà trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị; đó chính là không chỉ riêng một nhóm đối tượng nào được thụ hưởng GDPL mà toàn bộ công dân Việt Nam đều là đối tượng được quan tâm, được chú trọng, là mục đích hướng tới của công tác GDPL; và thêm nữa, đó là GDPL luôn luôn phải được đo lường với kết quả đầu ra, được đánh giá hiệu quả thông qua hệ tiêu chí cụ thể, đồng thời không chỉ xuất phát từ vai trò của các chủ thể GDPL mà luôn cần có sự đồng hành của các đối tượng thụ hưởng, chủ thể được GDPL...
2. Khái niệm về GDPL cho người lao động trong doanh nghiệp
Giáo dục pháp luật cho NLĐ trong doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay là một trong những yêu cầu có tính khách quan, cấp thiết, là một loại hoạt động có ý nghĩa xã hội đặc biệt quan trọng, nhân văn; hướng tới cung cấp, trang bị cho NLĐ những kiến thức, hiểu biết nhất định về pháp luật; từ đó, làm hình thành ở họ tình cảm, niềm tin, ý thức tôn trọng pháp luật, biết tuân thủ, chấp hành, sử dụng pháp luật một cách chủ động, tích cực và đúng đắn; góp phần phát huy vai trò, hiệu lực của pháp luật, nâng cao đời sống văn hóa pháp lý, xây dựng doanh nghiệp phát triển không chỉ về kinh tế mà còn cả vấn đề mang giá trị tạo nên sự bền vững của doanh nghiệp, đảm bảo quyền con người, quyền công dân.
Để có thể đưa ra khái niệm GDPL cho NLĐ trong doanh nghiệp thì xác định, phân tích rõ các vấn đề sau:
Thứ nhất, hoạt động GDPL là hoạt động thể hiện mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ, tương tác qua lại giữa chủ thể GDPL và đối tượng GDPL. Theo nguyên tắc đó, GDPL cho NLĐ trong doanh nghiệp cũng là hoạt động được thực hiện thông qua sự tác động qua lại lẫn nhau giữa chủ thể và đối tượng. Chủ thể GDPL ở đây chính là các cơ quan, ban, ngành, tổ chức, đoàn thể, cá nhân có chức năng nhiệm vụ GDPL nói chung và cho NLĐ nói riêng như: Sở Tư pháp các tỉnh, Phòng Tư pháp các huyện, Sở Lao động thương binh và xã hội, phòng Lao động thương binh và xã hội, Liên đoàn lao động các cấp; các cá nhân thực hiện GDPL: BCVPL, tư vấn viên pháp luật, cán bộ công đoàn, cán bộ thực hiện công tác pháp chế, giáo viên, giảng viên dạy môn pháp luật, phóng viên, biên tập viên pháp luật, luật sư, luật gia… Đối tượng tiếp nhận GDPL ở đây chính là NLĐ trong các doanh nghiệp.
Thứ hai, nội dung, hình thức, phương pháp GDPL cho NLĐ trong các doanh nghiệp được lựa chọn phù hợp với từng đối tượng NLĐ (đặc điểm giới, lứa tuổi, vùng miền, loại hình doanh nghiệp, yêu cầu của từng giai đoạn, thời điểm, đặc biệt là xuất phát từ nhu cầu của NLĐ…).
Về nội dung, ở giai đoạn hiện nay, đối với NLĐ không chỉ giáo dục, truyền tải các quy định pháp luật thực định, mà còn tập trung giáo dục ý thức tìm hiểu, tuân thủ pháp luật; dự thảo văn bản pháp luật có quy định tác động trực tiếp đến doanh nghiệp và NLĐ; các vấn đề pháp luật NLĐ quan tâm, hiện đang là điểm nóng cần tháo gỡ...
Về hình thức, phương pháp có nét đặc thù riêng, GDPL cho NLĐ thực hiện thông qua hình thức, phương pháp đa dạng, phong phú như tuyên truyền miệng về pháp luật; GDPL qua các phương tiện thông tin đại chúng; cổng/trang thông tin điện tử, mạng xã hội, thi tìm hiểu pháp luật; tài liệu PBGDPL; TGPL; tư vấn pháp luật; đối thoại chính sách pháp luật, loa truyền thanh tại các doanh nghiệp...
Thứ ba, hoạt động GDPL cho NLĐ là hoạt động có định hướng, có mục đích đã được xác định của chủ thể GDPL lên đối tượng NLĐ. Tính có định hướng, có mục đích trong hoạt động của chủ thể GDPL được thực hiện trên cơ sở: (1) xuất phát từ nhu cầu tìm hiểu pháp luật của NLĐ; (2) từ thực trạng hiểu biết, chấp hành pháp luật của NLĐ, qua đó các chủ thể GDPL phân tích, đánh giá, phát hiện những khoảng trống, những vấn đề cần thiết phải thực hiện GDPL cho NLĐ; (3) những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống về kiến thức, hiểu biết pháp luật của NLĐ cần phải có để có đủ tâm thế của một công dân có văn hóa pháp luật thời đại mới, một NLĐ giỏi về nghề, vững vàng về kiến thức pháp luật để có thể phục vụ tốt cho bản thân, gia đình, doanh nghiệp và xã hội.
Thứ tư, quá trình GDPL cho NLĐ trong doanh nghiệp được thực hiện theo quy trình GDPL từ xác định mục đích, yêu cầu đến xây dựng kế hoạch, văn bản hướng dẫn, tổ chức thực hiện, đánh giá kết quả. Trong quá trình này, việc xây dựng và tổ chức triển khai kế hoạch luôn căn cứ vào đặc điểm về kinh tế, văn hóa, lối sống, thực trạng hiểu biết và chấp hành pháp luật của NLĐ. Khía cạnh này có một số điểm cần lưu ý:
- Giáo dục pháp luật cho NLĐ mang những đặc điểm chung của quá trình GDPL cho các đối tượng khác, như cũng có kế hoạch, nội dung, chương trình, phương pháp, hình thức GDPL; tuy nhiên, những vấn đề trên được đặt trong sự phù hợp với thực trạng hiểu biết pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật, các yêu cầu về kiến thức, hiểu biết pháp luật một công dân cần phải có, những nhu cầu được tìm hiểu pháp luật, những lĩnh vực pháp luật gắn với cuộc sống của NLĐ và những đòi hỏi về giải quyết các vấn đề, sự kiện, hiện tượng pháp lý xảy ra trong cuộc sống, lao động, sinh hoạt hàng ngày của NLĐ;
Hoạt động GDPL cho NLĐ phải xuất phát từ yếu tố giới, lứa tuổi, thời gian, điều kiện làm việc, sinh sống của NLĐ, từ đó lựa chọn nội dung, hình thức, phương pháp GDPL phù hợp.
Thứ năm, GDPL cho NLĐ phải đạt được mục tiêu, hiệu quả mà chủ thể GDPL đặt ra. Mục tiêu, hiệu quả của hoạt động GDPL cho NLĐ phải được đánh giá thông qua bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả GDPL cho NLĐ; ba tiêu chí cơ bản cần đánh giá sau khi thực hiện GDPL cho NLĐ: mục tiêu về nhận thức, mục tiêu về thái độ và mục tiêu về hành vi.
Thứ sáu, GDPL cho NLĐ là một đặc trưng của Việt Nam thể hiện tính ưu việt, nhân văn của Đảng và Nhà nước đối với người dân nói chung và NLĐ nói riêng. GDPL cho NLĐ không chỉ thông tin, phổ biến pháp luật, không chỉ là tư vấn, giải đáp các tình huống pháp luật cụ thể mà NLĐ được GDPL. GDPL là “là quá trình tác động một cách có hệ thống, có mục đích và thường xuyên tới nhận thức của con người nhằm trang bị cho mỗi người một trình độ kiến thức pháp lý nhất định để từ đó có ý thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng và tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật” [3, tr. 177]. So với phổ biến thì giáo dục cũng nhằm nâng cao nhận thức, tình cảm song nội dung rộng hơn, phương thức tiến hành chặt chẽ hơn, đối tượng xác định hơn, mục đích lớn hơn. Xét dưới góc độ nhất định thì phổ biến chính là các phương thức giáo dục cụ thể. GDPL cho NLĐ là một quá trình hoạt động có mục đích giúp hình thành ở NLĐ những tri thức hiểu biết về pháp luật nói chung cũng như tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với quy định của pháp luật. GDPL có yếu tố giải thích, vận động, thuyết phục, truyền cảm hứng, thái độ tích cực để NLĐ nhận thức đúng đắn, đầy đủ và toàn diện về những chuẩn mực xã hội, những hành vi được làm, những hành vi không được làm, những hành vi bị nghiêm cấm, giới hạn các quyền, nghĩa vụ của mình, của các chủ thể khác được pháp luật bảo vệ và cơ chế để tổ chức thực thi, bảo vệ các quyền, nghĩa vụ lợi ích hợp pháp đó.
Việt Nam với điều kiện kinh tế, xã hội của một đất nước đang phát triển, với đặc thù của NLĐ về nhận thức, trình độ học vấn, sự hiểu biết xã hội, văn hóa, phong tục tập quán, đặc thù nghề nghiệp, điều kiện, hoàn cảnh bản thân và gia đình còn rất nhiều những khó khăn… chính vì vậy, họ không thể là đối tượng chỉ cần thông tin pháp luật, phổ biến pháp luật, hỗ trợ pháp lý hay tư vấn pháp luật là đủ mà họ cần được hỗ trợ hơn thế đó chính là GDPL. GDPL một hoạt động cụ thể hóa tư tưởng, mục đích nhân văn của Đảng và Nhà nước ta nhằm tạo cho người dân nói chung và NLĐ nói riêng có được nền tảng tri thức pháp lý, sự hiểu biết pháp luật nhất định, hình thành tình cảm, niềm tin với pháp luật để có thể thúc đẩy sự tuân thủ pháp luật, xây dựng nét văn hóa trong tôn trọng, chấp hành pháp luật.
Từ sự phân tích các khía cạnh nêu trên, có thể đưa ra định nghĩa: GDPL cho NLĐ là hoạt động có định hướng, có tổ chức, do các chủ thể có chức năng, nhiệm vụ GDPL tiến hành thông qua các phương pháp, hình thức đa dạng, linh hoạt, phù hợp với đặc điểm của NLĐ nhằm truyền tải kiến thức, nội dung, quy định pháp luật liên quan mật thiết đến cuộc sống, lao động, sinh hoạt hàng ngày từ đó hình thành nên ở họ ý thức pháp luật, tình cảm pháp luật và hành vi phù hợp với các yêu cầu của pháp luật hiện hành.
Ngô Quỳnh Hoa
Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật
Tài liệu tham khảo
- Ngô Văn Trù (2015), Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Đào Trí Úc (chủ nhiệm đề tài) (1995), Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật, Đề tài khoa học cấp Nhà nước, mã số KX-07-17, Hà Nội.
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật. NXB Công an nhân dân, Hà Nội.