Liên kết website

Thực trạng công tác phổ biến, giáo dục về gia đình và một số kiến nghị

30/06/2022

Gia đình là một thiết chế xã hội đặc biệt được xác lập và chi phối bởi các yếu tố liên quan đến quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng, kinh tế, văn hóa, đạo đức, tín ngưỡng…Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chính vì vậy, gia đình và vấn đề gia đình luôn là mối quan tâm hàng đầu của mỗi cá nhân và là một phần quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về xây dựng gia đình Việt Nam. Để đưa các chính sách, pháp luật vào cuộc sống, không thể không nhắc đến vai trò cầu nối của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) về gia đình.

1. Chủ trương, quan điểm của Đảng; chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác PBGDPL về gia đình
Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 21/02/2005 của Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng về xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước yêu cầu: “Đẩy mạnh, đổi mới và đa dạng hoá công tác truyền thông, tăng cường giáo dục đến từng hộ gia đình pháp luật, chính sách liên quan đến vấn đề xây dựng gia đình, đặc biệt là Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Pháp lệnh Dân số; đưa chủ đề gia đình vào các chương trình tuyên truyền, nêu gương người tốt, việc tốt và phê phán những biểu hiện không lành mạnh ảnh hưởng cuộc sống gia đình.
 
Nhằm đẩy mạnh công tác xây dựng gia đình trong tình hình mới, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, ngày 24/6/2021, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 06-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng gia đình trong tình hình mới. Chỉ thị xác định nhiệm vụ: “Tiếp tục nghiên cứu, quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác xây dựng gia đình”, “Đẩy mạnh, đổi mới công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình; các chuẩn mực, giá trị văn hóa gia đình; kiến thức, kỹ năng xây dựng gia đình; các rủi ro đối với gia đình, giúp người dân chủ động phòng ngừa các ảnh hưởng tiêu cực đến gia đình. Tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình”.
Các chính sách của Đảng về công tác, PBGDPL về gia đình được thể chế hóa bằng nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước.
 
Điều 10 Luật PBGDPL năm 2012 xác định một trong những nội dung PBGDPL trọng tâm là các quy định của Hiến pháp và văn bản quy phạm pháp luật về hôn nhân gia đình, bình đẳng giới, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (trong đó có quyền được bảo hộ về hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em). Luật cũng xác định đối tượng nạn nhân bạo lực gia đình là một trong những đối tượng yếu thế, đặc thù cần được quan tâm trong phổ biến, giáo dục pháp luật (Điều 19). Đồng thời xác định trách nhiệm của các thành viên trong gia đình có trách nhiệm gương mẫu chấp hành pháp luật; ông, bà, cha, mẹ có trách nhiệm giáo dục và tạo điều kiện cho con, cháu tìm hiểu, học tập pháp luật, rèn luyện ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật (Điều 32).
 
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: Nhà nước có trách nhiệm tăng cường tuyên truyền, PBGDPL về hôn nhân và gia đình; Nhà trường phối hợp với gia đình trong việc giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hôn nhân và gia đình cho thế hệ trẻ.
 
Luật Phòng chống gia đình năm 2007 xác định thông tin, tuyên truyền về phòng chống bạo lực gia đình là một trong những biện pháp phòng ngừa bạo lực gia đình và dành một mục trong Chương II quy định về mục đích, yêu cầu, nội dung hình thức thông tin, tuyên truyền về phòng chống bạo lực gia đình.
 
Luật Bình đẳng giới năm 2006 cũng xác định Thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và bình đẳng giới là biện pháp quan trọng nhằm nâng cao nhận thức về giới và bình đẳng giới.
 
Ngày 29/5/2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 629/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 xác định mục tiêu nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, trách nhiệm của gia đình và cộng đồng trong việc thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình, ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình.
 
Như vậy, có thể khẳng định chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về PBGDPL về gia đình là một chủ trương nhất quán. Đây là nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để thực hiện mục tiêu xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh.
2. Một số kết quả đạt được trong công tác tuyên tuyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về gia đình
Thực hiện Điều 6 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Điều 2 Nghị định số 28/2013/NĐ-CP ngày 04/4/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật PBGDPL, Bộ Tư pháp đã tích cực tham mưu giúp Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về PBGDPL, phối hợp các cơ quan, đơn vị có liên quan triển khai các hoạt động PBGDPL nói chung, trong đó quan tâm, nhấn mạnh đến việc phổ biến các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về gia đình; thực hiện nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp luật về gia đình; truyền thông, phổ biến kiến thức, kỹ năng PBGDPL liên quan đến quyền trẻ em, thực hiện bình đẳng trong gia đình; phòng, chống bạo lực gia đình và phòng ngừa, ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình và các vấn đề khác liên quan đến gia đình…
 
Trên cơ sở đó, các Bộ, ngành, địa phương đã thực hiện nhiều Chương trình, Đề án liên quan đến công tác PBGDPL về gia đình: Bộ Thông tin và Truyền thông triển khai Đề án tuyên truyền về xây dựng gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình trên các phương tiện thông tin đại chúng đến năm 2020 (Quyết định số 1572/QĐ-TTg ngày 05/9/ 2014 của Thủ tướng Chính phủ); Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai Đề án giáo dục chuyển đổi hành vi về xây dựng gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình đến năm  2020 (Quyết định số 2170/QĐ-TTg ngày 11/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ); Ủy ban Dân tộc triển khai Đề án giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2015 – 2025 (Quyết định số 498/QĐ-TTg ngày 14/4/2015 của Thủ tướng Chính phủ); Chương trình phối hợp giữa Bộ Tư pháp và Hội LHPN Việt Nam về “Đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật cho phụ nữ, hòa giải cơ sở và lồng ghép giới trong xây dựng pháp luật giai đoạn 2013-2017” và “Thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật cho phụ nữ; hòa giải ở cơ sở và lồng ghép giới trong xây dựng pháp luật giai đoạn 2018-2022” cũng được triển khai sâu rộng ở các địa phương trong cả nước.
 
Công tác PBGDPL nói chung và công tác PBGDPL về gia đình nói riêng đã được chú trọng; cấp ủy, chính quyền, đoàn thể quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, góp phần nâng cao nhận thức cho cán bộ nhân dân, đặc biệt là các thành viên trong gia đình trong việc xây dựng gia đình văn hóa, hạnh phúc. Nội nội dung pháp luật được lựa chọn, phổ biến có liên quan trực tiếp, thiết thực, có trọng tâm, trọng điểm, gắn liền với đời sống sinh hoạt gia đình và các thành viên trong gia đình, đặc biệt chú ý đến những quy định pháp luật về quyền lợi của nhóm yếu thế là phụ nữ và trẻ em. Các hình thức PBGDPL về gia đình được triển khai phong phú, hấp dẫn, có tính chất lan tỏa sâu rộng đến từng nhóm đối tượng, từng địa bàn dân cư, loại bỏ dần các hoạt động hình thức, mang tính phong trào, bao gồm:
 
a) Biên soạn, phát hành hoặc đăng tải công khai trên Trang thông tin PBGDPL, Cổng thông tin điện tử của các bộ, ngành, địa phương các tài liệu PBGDPL về các quy định pháp luật chính sách, pháp luật về gia đình như Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Trẻ em, Luật Thanh niên, Luật Người cao tuổi, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Bình đẳng giới, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự…như: Đề cương, Tài liệu PBGDPL nội dung cơ bản của các Luật, Nghị quyết mới được thông qua tại các kỳ họp Quốc hội; tờ gấp pháp luật; xây dựng các câu chuyện, tình huống, tiểu phẩm, hỏi đáp liên quan đến nội dung này. Các tài liệu này được phát hành, đăng tải rộng rãi để mọi tầng lớp nhân dân dễ dàng tiếp cận, khai thác, sử dụng  thông qua đó góp phần PBGDPL thực hiện chính sách, pháp luật về gia đình.
 
b) Tổ chức các hội nghị, hội thảo tập huấn cho báo cáo viên pháp luật Trung ương, báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh, cán bộ chủ chốt làm công tác PBGDPL; giáo viên dạy môn giáo dục công dân trong nhà trường trung học phổ thông; giảng viên dạy môn học pháp luật trong các trường cao đẳng, đại học… để cập nhật, bổ sung kiến thức pháp luật, nghiệp vụ, kỹ năng PBGDPL về các chính sách, pháp luật về gia đình. Tiếp tục huy động, phát huy vai trò tích cực của các tổ chức chính trị - xã hội, đội ngũ báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật, già làng, trưởng thôn, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng tham gia PBGDPL trực tiếp để vận động, thuyết phục đồng bào, người dân nghiêm túc thực hiện chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình, xóa bỏ hủ tục lạc hậu về hôn nhân và gia đình…
 
c) Thực hiện các hoạt động thông tin, truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng về việc PBGDPL thực hiện chính sách, pháp luật về gia đình.
Thực hiện Đề án Tuyên truyền về xây dựng gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình trên các phương tiện thông tin đại chúng đến năm 2020 (Quyết định số 1572/QĐ-TTg ngày 05/9/2014), Bộ Thông tin và Truyền thông đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, Ban, ngành, địa phương xây dựng các nội dung PBGDPL về gia đình  như:  Biên tập sổ tay, tài liệu và tập huấn cho phóng viên, biên tập viên phụ trách chuyên trang, chuyên mục, chuyên đề về xây dựng gia đình, phòng chống bạo lực gia đình; biên tập, sản xuất, xây dựng bài viết, bản tin, phóng sự, phim ngắn về đường lối, chính sách, pháp luật hôn nhân và gia đình, chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, không phá thai vì giới tính của thai nhi; về phúc lợi xã hội dành cho gia đình chính sách, gia đình nghèo, kiến thức, kỹ năng, phát triển kinh tế gia đình, ứng phó với thiên tai và khủng hoảng kinh tế; biên tập, sản xuất, xây dựng bài viết, bản tin, phóng sự theo các chuyên đề khác nhau cho đối tượng nam, nữ thanh niên trước khi kết hôn có được kiến thức cơ bản về gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình; mở các chuyên mục, chuyên đề, chương trình phổ biến đường lối, chính sách, pháp luật về hôn nhân, gia đình, phòng chống bạo lực gia đình trên các kênh phát thanh, truyền hình quảng bá ở trung ương, địa phương; mở chuyên trang, chuyên mục, chuyên đề, quảng cáo về xây dựng gia đình và phòng chống bạo lực gia đình trên các báo, tạp chí in, báo điện tử.
 
d) PBDPL về gia đình thông qua tổ chức các Cuộc thi tìm hiểu pháp luật
Nhằm đổi mới công tác PBGDPL, một trong những hình thức PBGDPL hiệu quả được  Bộ Tư pháp và các bộ, ngành địa phương lựa chọn trong những năm gần đây là tổ chức cuộc thi tìm hiểu pháp luật, có thể kể đến như: Cuộc thi sáng tác tiểu phẩm pháp luật năm 2018 thuộc phạm vi thực hiện Đề án “Tăng cường công tác PBGDPL tại một số địa bàn trọng điểm về vi phạm pháp luật giai đoạn 2017-2021”[1] ; Cuộc thi sáng kiến, mô hình phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh, thiếu niên thuộc phạm vi thực hiện Đề  án “Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh thiếu niên”[2], Cuộc thi “Luật gia tương lai” trực tuyến tìm hiểu kiến thức pháp luật dành cho học sinh trung học phổ thông năm 2016, 2017[3]; Cuộc thi “Pháp luật học đường” tìm hiểu kiến thức pháp luật trong trường trung học phổ thông, trung tâm giáo dục thường xuyên và các cơ sở giáo dục nghề nghiệp năm 2019; đặc biệt là các cuộc thi tìm hiểu pháp luật trực tuyến theo chủ đề. Trong đó đều có lồng ghép các nội dung pháp luật về Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Trẻ em, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Bình đẳng giới… từ đó giúp phát huy hiệu quả phổ biến, nâng cao ý thức pháp luật của người dân và xã hội khi tham gia các quan hệ hôn nhân và gia đình...
 
đ) PBGDPL về gia đình thông qua giáo dục pháp luật trong nhà trường
Bộ Tư pháp đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo, hướng dẫn các Sở Giáo dục và Đào tạo, Ban Giám hiệu nhà trường tăng cường công tác PBGDPL, trang bị kiến thức pháp luật, kỹ năng áp dụng pháp luật cho học sinh, sinh viên tìm hiểu pháp luật về hôn nhân và gia đình dưới các hình thức như: Tổ chức rà soát giáo trình giảng dạy pháp luật, sách giáo khoa môn giáo dục công dân, kiến nghị ngành giáo dục cập nhật, bổ sung các nội dung cần thiết đưa nội dung giảng dạy pháp luật về hôn nhân gia đình, phòng chống bạo lực gia đình, bình đẳng giới… là những nội dung quan trọng trong chương trình học chính khóa của môn học pháp luật, môn giáo dục công dân; các chương trình ngoại khóa PBGDPL như: “Tiết pháp luật”, “Ngày pháp luật”, tổ chức PBGDPL qua sinh hoạt chào cờ đầu tuần, qua hệ thống phát thanh trường học, sinh hoạt câu lạc bộ pháp luật học đường, tổ chức các hội thi, cuộc thi tìm hiểu pháp luật như “Rung chuông vàng”, “Phiên tòa giả định”, thi hùng biện pháp luật, thi tìm  hiểu pháp luật trực tuyến….
 
e) PBGDPL về gia đình thông qua hoạt động tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở
Qua thực tiễn triển khai, hoạt động trợ giúp pháp lý có quan hệ mật thiết với hoạt động PBGDPL. Ngoài công việc chính là trợ giúp, giải đáp, hướng dẫn về pháp luật đối với các vụ việc cụ thể tại địa phương, các Trung tâm trợ giúp pháp lý, Liên đoàn luật sư Việt Nam, Đoàn Luật sư các tỉnh, thành phố còn làm tốt việc phối hợp với các đơn vị liên quan như Hội Phụ nữ, Phòng Tư pháp cấp huyện, các trường học tổ chức các buổi trợ giúp lưu động để giải đáp, phổ biến pháp luật, giới thiệu văn bản pháp luật mới cho nhiều người tham dự, phát tờ gấp pháp luật, sách hỏi - đáp về các lĩnh vực pháp luật mà người dân quan tâm trong đó có lĩnh vực pháp luật hôn nhân - gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình…
 
Hiện nay công tác hòa giải đã và đang trở thành một hình thức quan trọng và hiệu quả trong hoạt động PBGDPL. Tính đến ngày 31/12/2021, cả nước có 87.964 tổ hòa giải được thành lập tại thôn, tổ dân phố với 551.328 hòa giải viên, tỷ lệ hòa giải trên cả nước những năm gần đây đều đạt trên 80% không chỉ góp phần giải quyết có hiệu quả các tranh chấp, mâu thuẫn, vi phạm pháp luật ngay tại cơ sở, tiết kiệm được thời gian, công sức, tiền bạc của Nhà nước, nhân dân, mà còn trực tiếp góp phần củng cố tình đoàn kết trong nội bộ nhân dân; duy trì và phát huy đạo lý truyền thống tốt đẹp, thuần phong, mỹ tục của dân tộc; phát huy quyền làm chủ; nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân; phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, hạn chế đơn thư khiếu nại, tố cáo; giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, tạo sự đồng thuận, ổn định xã hội để phục vụ phát triển đất nước. Thông qua công tác hòa giải ở cơ sở, hòa giải viên đã kịp thời ngăn chặn những hành vi “giận quá mất khôn”, “giận cá chém thớt” của các cá nhân trong xã hội. Đồng thời, qua quá trình hòa giải, hòa giải viên đã giúp cho các thành viên trong gia đình nhận thức rõ những quy định pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, bình đẳng giới, trách nhiệm của các thành viên trong gia đình theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, trẻ em, người cao tuổi... và trách nhiệm, hậu quả của hành vi bạo lực gia đình do mình gây ra. Từ đó giải tỏa vướng mắc, ngăn ngừa tội phạm; xây dựng tình đoàn kết tương thân, tương ái trong gia đình, giữ gìn ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.
 
g) PBGDPL về gia đình thông qua sinh hoạt câu lạc bộ pháp luật
Các địa phương trên cả nước trong thời gian qua đã quan tâm xây dựng, duy trì nhiều loại hình câu lạc bộ pháp luật như: Câu lạc bộ tiền hôn nhân, Câu lạc bộ không sinh con thứ ba, Câu lạc bộ phụ nữ với pháp luật, Câu lạc bộ thanh niên với pháp luật, tạo diễn đàn để hội viên và người dân tham gia giao lưu, học tập, trao đổi kiến thức, kinh nghiệm; qua đó, các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước được phổ biến rộng rãi, kịp thời đến các hội viên và nhân dân trên địa bàn mà một trong các hoạt động chính là phổ biến Luật Hôn nhân và Gia đình và các văn bản hướng dẫn.
 
Theo Báo cáo tổng kết Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn năm 2030, tính đến năm 2019, có 44/63 địa phương trên cả nước đã đạt mục tiêu 95% trở lên hộ gia đình được phổ biến và cam kết thực hiện tốt các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình, ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình. Từ đó góp phần quan trọng nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền và người dân về tầm quan trọng của gia đình, công tác gia đình, đặc biệt là mục tiêu xây dựng gia đình no ấm, hạnh phúc; các vụ bạo lực gia đình giảm, sự bình đẳng về quyền lợi học tập, làm việc, chăm sóc sức khỏe, nuôi con của phụ nữ được cải thiện; vị thế, vai trò của phụ nữ được khẳng định trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội; tiến tới xóa bỏ sự phân biệt đối xử về giới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và trong từng gia đình.
 
3. Tồn tại, hạn chế trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về gia đình và nguyên nhân
3.1. Tồn tại, hạn chế
Mặc dù công tác PBGDPL về gia đình thời gian qua đã và đang được coi trọng và thực hiện một cách nghiêm túc. Tuy nhiên, trong quá trình theo dõi và thực hiện công tác PBGDPL nói chung và công tác PBGDPL về gia đình nói riêng cho thấy công tác vẫn chưa thực sự đạt hiệu quả cao, thể hiện ở một số mặt sau:
 
- Công tác PBGDPL về chính sách, pháp luật về gia đình chưa được thực hiện thường xuyên, liên tục, sâu rộng đến các tầng lớp Nhân dân. Nội dung, hình thức  PBGDPL nói chung chậm đổi mới. Nội dung pháp luật còn chung chung, mới chú trọng phổ biến các quy định pháp luật thực định, chưa nắm bắt nhu cầu của người dân. Hình thức phổ biến còn nặng về tổ chức hội nghị quán triệt, phổ biến, chưa thực sự phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện thực tế và khả năng tiếp cận pháp luật của từng nhóm đối tượng, chưa áp dụng linh hoạt, đổi mới các hình thức phù hợp với xu thế chung. Kỹ năng và phương pháp tuyên truyền, tư vấn chưa đáp ứng yêu cầu. Các tài liệu PBGDPL về gia đình cũng chưa được thiết kế dễ hiểu, thân thiện với người dân.
 
- Một bộ phận Nhân dân chưa tiếp cận và nắm bắt được các chủ trương, chính sách về công tác gia đình; chưa nhận thức được vai trò của gia đình trong việc xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc cũng như phát triển xã hội. Định kiến về phân biệt đối xử, tư tưởng “trọng nam, khinh nữ” còn tồn tại dai dẳng trong nhận thức chung của xã hội, trong gia đình. Nhiều hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này vẫn còn xảy ra, tình trạng bất bình đẳng, bạo lực hành giữa các thành viên trong gia đình (đặc biệt đối với phụ nữ và trẻ em) vẫn xảy ra phổ biến ở nhiều nơi, nhiều vụ việc với mức độ nghiêm trọng; đặc biệt ở các địa phương có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết chưa được giải quyết dứt điểm.
 
3.2. Nguyên nhân
Những tồn tại, hạn chế trong công tác PBGDPL về gia đình chủ yếu xuất phát từ một số nguyên nhân sau:
- Một số cấp uỷ, chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc phổ biến pháp luật, giáo dục đạo đức, lối sống cho các thành viên trong gia đình.
 
- Nhiều bộ, ngành chuyên ngành chưa quan tâm, coi trọng công tác PBGDPL thuộc lĩnh vực chuyên ngành quản lý nên công tác PBGDPL về lĩnh vực này chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục và có trọng tâm, trọng điểm.
 
- Nguồn lực bảo đảm công tác PBGDPL nói chung chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ, đặc biệt khó khăn với những địa phương chưa tự cân đối được ngân sách. Nguồn nhân lực thực hiện công tác PBGDPL còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ chuyên môn; đặc biệt ở những vùng biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế khó khăn.
 
- Công tác phối hợp, báo cáo, phản hồi thông tin giữa Bộ, ngành, đoàn thể, cấp hội, cơ quan có trách nhiệm trong PBGDPL về gia đình, còn chưa chặt chẽ, thiếu thường xuyên; chưa bảo đảm sự điều tiết, phân phối nguồn lực một cách hợp lý… do đó hiệu quả chưa thực sự được như mong muốn.
 
4. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về gia đình
Thứ nhất, ngày 20/6/2020, Ban Bí thư đã ban hành Kết luận số 80-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ, nhân dân, trong đó tiếp tục xác định PBGDPL là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để thực hiện Kết luận, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1521/QĐ-TTg ngày 06/10/2020 và cụ thể hóa nhiều nhiệm vụ quan trọng thuộc trách nhiệm của các bộ, ngành trung ương bao gồm Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Theo đó cần triển khai kịp thời, đồng bộ, đầy đủ các nhiệm vụ PBGDPL nói chung và PBGDPL về gia đình nói riêng trên cơ sở bám sát các yêu cầu, giải pháp đề ra tại Kết luận số 80-KL/TW và Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 24/6/2021.
 
Thứ hai, sơ kết, tổng kết đánh giá kết quả, tồn tại, hạn chế, khó khăn trong triển khai thực hiện các Đề án liên quan đến PBGDPL về gia đình, nhất là Đề án đã kết thúc hoặc sắp đến thời điểm kết thúc để từ đó kiến nghị, đề xuất việc tiếp tục thực hiện hoặc xây dựng, ban hành các Đề án mới cho phù hợp thực tế, nhằm cập nhật các nhiệm vụ, giải pháp theo yêu cầu của Chỉ thị số 06-CT/TW và Kết luận số 80-KL/TW ngày 20/6/2020 của Ban Bí thư; gắn việc thực hiện nhiệm vụ PBGDPL về gia đình với các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình, đề án liên quan đến gia đình.
 
Thứ ba, đổi mới nội dung và hình thức PBGDPL về gia đình.
- Nội dung PBGDPL về gia đình cần có trọng tâm, trọng điểm, hướng tới từng nhóm đối tượng cụ thể và xuất phát từ nhu cầu thực tế của đối tượng. Nội dung PBGDPL cần tập trung vào các quy định quyền, nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình, trình tự, thủ tục thực hiện quyền, nghĩa vụ; nhận diện được hành vi vi phạm pháp luật về gia đình nói chung và các hành vi bạo lực gia đình nói riêng; các giải pháp bảo vệ, phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật; biết được các địa chỉ; cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ, giúp đỡ, hỗ trợ khi vụ việc xảy ra; gắn tuyên truyền, phổ biến các quy định pháp luật với các kỹ năng phòng ngừa, đấu tranh đối với hành vi xâm hại, vi phạm pháp luật. Chú trọng việc nêu gương tốt, điển hình thông qua các hoạt động PBGDPL; đồng thời tạo dư luận xã hội công khai qua công tác PBGDPL với những vụ việc bạo lực gia đình, xâm phạm phụ nữ và trẻ em gái.
 
 - Đổi mới hình thức PBGDPL gắn với ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, mạng xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng để cung cấp, chia sẻ kiến thức pháp luật về thực hiện nhiệm vụ PBGDPL về gia đình; tổ chức đối thoại, phản biện, giám sát thực hiện chính sách pháp luật nhà nước về gia đình. Đẩy mạnh các hoạt động tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, hòa giải ở  cơ sở; thực hiện lồng ghép PBGDPL, trợ giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở cho phụ nữ với các chương trình, đề án phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao dân trí; xây dựng phong trào xóa đói giảm nghèo, xây dựng gia đình hạnh phúc; chú trọng sơ kết, tổng kết các mô hình, cách làm hay trong PBGDPL chính sách, pháp luật về gia đình để nhân rộng, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác này.
 
- Đối tượng PBGDPL về gia đình, cần khảo sát đầy đủ nhu cầu pháp luật của các nhóm đối tượng PBGDPL về gia đình, đặc biệt chú ý đến nhóm yếu thế phụ nữ, trẻ em, nạn nhân bạo lực gia đình; phân tích những rào cản hạn chế quyền tiếp cận thông tin, tiếp cận pháp luật của các nhóm đối tượng để từ đó xây dựng nội dung, đề xuất hình thức, giải pháp PBGDPL phù hợp.
 
Thứ tư, nâng cao nguồn lực PBGDPL về gia đình:
- Rà soát, xây dựng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên thực hiện công tác PBGDPL về gia đình theo hướng chuyên sâu, chuyên nghiệp; chú trọng nâng cao năng lực, nghiệp vụ PBGDPL, cập nhật kiến thức, kỹ năng đáp ứng yêu cầu của công tác PBGDPL về gia đình cho đội ngũ này.
 
- Tăng cường tổ chức tập huấn kiến thức pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ thực hiện nhiệm vụ PBGDPL về gia đình; truyền thông, phổ biến kiến thức, kỹ năng và vận động xã hội thực hiện quyền phụ nữ, trẻ em, thực hiện bình đẳng trong gia đình cho đội ngũ giáo viên, báo cáo viên pháp luật, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế khó khăn.
 
- Bố trí nguồn kinh phí hợp lý, có chế độ đãi ngộ, thù lao phù hợp cho đội ngũ báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật, thu hút người am hiểu pháp luật, công tác trong lĩnh vực pháp luật tham gia thực hiện PBGDPL chính sách, pháp luật về gia đình. Huy động các nguồn lực xã hội tham gia PBGDPL theo tinh thần xã hội hóa.
 
Thứ năm, tăng cường trách nhiệm, thực hiện tốt cơ chế phối hợp trong PBGDPL về gia đình:
- Phát huy đầu đủ vai trò, trách nhiệm của các bộ, cơ quan liên quan (Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Lao động- Thương binh và xã hội, Giáo dục và Đào tạo, Thông tin và Truyền thông, …) trong chỉ đạo, triển khai công tác PBGDPL về gia đình.
 
- Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong công tác giám sát thi hành pháp luật, pháp lệnh, vận động thành viên, hôi viên của tổ chức mình tuân thủ, chấp hành pháp luật ở mỗi địa bàn./.
Nguyễn Thị Tâm
Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật 

[1] Với gần 3.500 bài dự thi.
[2] Khoảng 10.000 bài dự thi.
[3] Kế hoạch liên tịch số 3025/KHLT-BTP-BGD&ĐT ngày 5/9/2016; Kế hoạch số 3117/KH-BTP ngày 30/8/2017.
Các tin đã đưa ngày: