1. Bối cảnh chung của pháp luật quốc tế về hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người
Sự phát triển mạnh mẽ của Y học giải phẫu trên thế giới đã làm cho cuộc sống của con người có những thay đổi kỳ diệu từ chỗ con người có thể bị chết do một bộ phận của cơ thể bị tổn thương, bị nhiễm bệnh nặng thì nay con người có thể lại được tái sinh sự sống của mình thông qua việc cấy, ghép mô, bộ phận cơ thể từ những người tình nguyện hiến tặng cho người đang nhiễm bệnh nặng. Để tạo khung pháp lý bảo đảm cho sự kỳ diệu đó được phát triển, lan tỏa và giúp tái sinh lại sự sống cho rất nhiều người bệnh, đa số các quốc gia trên thế giới đã xây dựng một đạo luật cụ thể để điều chỉnh lĩnh vực này trên phạm vi lãnh thổ của quốc gia mình.
Trong khuôn khổ pháp luật quốc tế, đầu tiên có thể kể đến Công ước quốc tế về quyền con người năm 1948; Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (CCPR), khoản 1 Điều 6 của Công ước quy định
[1]:
"Mọi người có quyền cố hữu là được sống. Quyền này phải được pháp luật bảo vệ. Không ai được tước đoạt mạng sống một cách tùy tiện"; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966 (CESCR). Trong khuôn khổ tổ chức y tế thế giới (WHO) đã thông qua Nghị quyết về việc phát triển các hoạt động cấy ghép năm 2004; Tổ chức UNESCO đã thành lập một cơ quan trực tiếp liên quan đến vấn đề này là Ủy ban quốc tế về đạo đức y sinh và Cơ quan này cũng đã công bố Tuyên bố toàn cầu về đạo đức y sinh học và quyền con người, trong đó đã đưa ra những nguyên tắc chung nhằm bảo vệ quyền con người và đã được thừa nhận rộng rãi như là một nguyên tắc không được thương mại hóa mô, bộ phận cơ thể người; nguyên tắc bảo vệ người chưa thành niên và những người được pháp luật bảo hộ và nguyên tắc phải có sự đồng ý của đương sự về việc hiến; Trong khuôn khổ Hội đồng Châu Âu đã có Công ước về bảo vệ quyền con người và nhân phẩm con người trong việc ứng dụng các tiến bộ y học và sinh học ngày 4/4/1997 (Công ước OVIEDO). Công ước này đã đưa ra nguyên tắc cơ bản như: Bắt buộc phải có sự đồng ý của đương sự; Quyền được thông tin đối với cả người hiến và người nhận
[2]. Trong khuôn khổ của Liên minh Châu Âu có thể kể ra Chỉ thị số 23/2004 về việc thiết lập các tiêu chuẩn chất lượng và an toàn áp dụng đối với các hoạt động hiến, lấy, kiểm soát, xử lý, bảo quản, lưu trữ phân phối mô và tế bào người. Thông qua các Công ước quốc tế và khu vực, có thể thấy rằng quyền hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người có vai trò đặc biệt quan trọng, là một phần cơ bản của quyền con người, quyền nhân thân của mỗi cá nhân. Để đảm bảo cho quyền này được thực hiện một cách minh bạch, hiệu quả, quốc tế đã có những quy định mang tính nguyên tắc về vấn đề này để làm tiêu chuẩn và là nguồn quan trọng cho các quốc gia trong quá trình nghiên cứu xây dựng một khung pháp lý điều chỉnh quyền hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người trong phạm vi quốc gia và vùng lãnh thổ mà mình quản lý.
2. Khung pháp lý thể hiện quyền con người về hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người của một số nước trên thế giới
Thứ nhất, điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể người
Một là, điều kiện về độ tuổi: Pháp luật một số nước họ đã quy định cho phép người chưa thành niên được đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể và hiến xác sau khi chết, pháp luật Hà Lan cho phép trẻ em từ mười hai tuổi đến dưới mười tám tuổi có quyền đăng ký hiến mô, hiến bộ phận cơ thể khi sống cũng như sau khi chết và hiến xác
[3]. Theo Đạo luật hiến mô, bộ phận cơ thể người của Hà Lan, công dân Hà Lan có thể ghi lại sự đồng ý của mình để hiến trên hệ thống đăng ký quốc gia. Khi thực hiện việc này, cá nhân là người chưa thành niên có thể chỉ định mô, bộ phận cơ thể mà cá nhân đó muốn hiến khi sống hoặc sau khi cá nhân chết. Tuy nhiên, cha mẹ của người hiến chưa thành niên có thể phản đối mong muốn của con mình về việc hiến đó, ngay cả trong trường hợp đứa trẻ đó đang thực hiện việc đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể người, đến khi đứa trẻ bước sang tuổi mười sáu thì có quyền độc lập thực hiện quyền này. Điều đó có nghĩa là, cha mẹ người hiến là người dưới muời sáu tuổi được phép phản đối quyết định đăng ký hiến của con mình với cơ quan có thẩm quyền, tuy nhiên khi đứa trẻ bước sang tuổi thứ mười sáu thì hoàn toàn có quyền độc lập thực hiện quyền đăng ký hiến của mình bất chấp sự phản đối của cha mẹ.
Pháp luật Nga quy định điều kiện đối với người hiến mô, bộ phận cơ thể và hiến xác phải là người thành niên
[4]. Quy định trên có thể hiểu rằng, đối với người hiến sống thì pháp luật quy định bắt buộc phải là người thành niên, còn đối với hiến sau khi chết thì bất cứ ai cũng được quyền đăng ký hiến. Trong khi, pháp luật Việt Nam không cho phép cá nhân là người chưa thành niên được quyền đăng ký hiến mô (đặc biệt hiến tuỷ, máu) và hiến bộ phận cơ thể của mình khi sống cũng như sau khi họ qua đời. Hiểu theo quy định của pháp luật Nga có nghĩa là, pháp luật đất nước họ chỉ quy định người thành niên mới thực hiện quyền hiến (trực tiếp hiến một phần bộ phận cơ thể để ghép cho người khác), còn người chưa thành niên họ vẫn có quyền đi đăng ký hiến và việc hiến chỉ được thực hiện khi họ là người thành niên.
Pháp luật Pháp quy định rất chặt chẽ đối với trường hợp hiến sống, người hiến sống phải là người thành niên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ mới có quyền đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể
[5], người chưa thành niên không được đăng ký hiến mô, hiến bộ phận cơ thể khi sống. Tuy nhiên đối với hiến sau khi chết, Pháp cho phép người từ đủ mười ba tuổi trở lên có quyền đăng ký hiến để phục vụ chữa bệnh và nghiên cứu khoa học. Bởi theo quy định pháp luật Pháp, đủ mười ba tuổi được pháp luật thừa nhận là tuổi có nhiều ràng buộc pháp lí như có thể phải chịu trách nhiệm hình sự nếu phạm tội nghiêm trọng và đủ mười lăm tuổi họ đã có quyền kết hôn
[6]. Điều đó có thể hiểu rằng, khi cá nhân chưa thành niên thì họ vẫn được quyền đăng ký hiến mô, hiến bộ phận cơ thể, hiến xác và việc thực hiện quyền hiến này chỉ được tiến hành sau khi họ chết.
Pháp luật Tây Ban Nha quy định:
“Người hiến tặng đủ tuổi hợp pháp”[7], đủ tuổi hợp pháp ở đây khi dẫn chiếu theo quy định của Bộ luật Dân sự Tây Ban Nha, người thành niên có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể và hiến xác cả khi họ sống và sau khi họ chết. Tuy nhiên, pháp luật Tây Ban Nha lại quy định: “
Người chưa thành niên có thể là người hiến tặng mô của cơ quan tạo máu và tuỷ xương. Trong trường hợp này, người cho và người nhận phải có mối quan hệ di truyền và luôn có sự cho phép trước của cha mẹ hoặc người giám hộ của họ”
[8]. Điều đó có nghĩa là, Tây Ban Nha cho phép người chưa thành niên được quyền đăng ký và hiến mô (cụ thể đó là máu và tuỷ xương), tuy nhiên Tây Ban Nha lại là quốc gia theo cơ chế suy đoán đồng ý, nghĩa là khi cá nhân không có đơn từ chối hiến gửi đến cơ quan có thẩm quyền thì mặc nhiên được hiểu là họ đồng ý hiến mô, hiến bộ phận cơ thể và hiến xác sau khi họ chết, vậy đối với người chưa thành niên thì cũng hiểu theo cơ chế đó và họ cũng có quyền đăng ký hiến và thực hiện quyền hiến mô, bộ phận cơ thể và hiến xác nếu như vì một lý do bất khả kháng nào đó mà họ qua đời khi họ đang là người chưa thành niên
[9].
Pháp luật Anh quy định, tất cả mọi người thành niên mặc nhiên được coi là tự nguyện hiến mô, bộ phận cơ thể và hiến xác sau khi cá nhân đó chết, trừ trường hợp họ không muốn hiến và việc không muốn hiến của cá nhân đó được thể hiện bằng văn bản (lựa chọn hình thức không tham gia), tức là Anh cũng là quốc gia theo cơ chế suy đoán đồng ý. Để thực hiện điều đó thì khi sống họ đã chỉ định người đại diện để quyết định việc thực hiện quyền hiến của họ sau khi họ chết. Hiểu dưới góc độ theo quy định của pháp luật Anh thì người chưa thành niên cũng có quyền đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể và hiến xác khi sống và sau khi qua đời và để thực hiện quyền hiến của họ có thể thông qua người đại diện hoặc người giám hộ của người chưa thành niên
[10].
Đạo luật Quà tặng giải phẫu thống nhất (The Uniform Anatomical Git Act – UAGA) của Hoa Kỳ quy định mọi công dân từ mười lăm tuổi trở lên đều có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể để cấy ghép, trị liệu, nghiên nghiên cứu khoa học hoặc giảng dạy và quyền này do cá nhân hoàn toàn quyết định, không phụ thuộc vào việc các thành viên trong gia đình có đồng ý hay không (điều đó có nghĩa là Pháp luật Dân sự Hoa Kỳ cho phép công dân nước họ ở độ tuổi từ đủ mười lăm tuổi trở lên được quyền đăng ký hiến mô, hiến bộ phận cơ thể khi sống cũng như sau khi chết và hiến xác). Theo Mục 4 UAGA quy định:
“Nếu trẻ vị thành niên ở độ tuổi mà chúng có quyền lấy bằng lái xe, trẻ vị thành niên có thể thực hiện việc đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể mặc dù trẻ vị thành niên không thực sự xin phép gia đình. Do đó, một đứa trẻ vị thành niên – người mà có thể xin giấy phép cũng có thể thực hiện việc đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể bằng một phương tiện khác, chẳng hạn như thẻ đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể hoặc sổ đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể. Hơn nữa, nếu trẻ vị thành niên có được một giấy phép mà trên giấy phép đó trẻ vị thành niên đã đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể thì trẻ vị thành niên sẽ không phải đăng ký lại giấy phép lái xe khi đủ mười tám tuổi để việc hiến mô, bộ phận cơ thể có hiệu lực”[11].
Hai là, điều kiện về sức khỏe: Pháp luật Nga quy định việc hiến mô, bộ phận cơ thể từ người hiến chỉ được thực hiện trên cơ sở kết luận của bác sĩ chuyên khoa
[12]; Pháp luật Pháp quy định
[13] điều kiện về sức khỏe trở thành một nguyên tắc an toàn y tế và cẩn trọng, bởi nếu các cơ sở y tế có thẩm quyền không kiểm tra kỹ về tình trạng sức khỏe của người hiến mà người hiến lại bị mắc bệnh nan y thì có thể gây nguy hiểm cho người nhận khi thực hiện ghép bộ phận cơ thể cho họ hoặc nếu không kiểm tra cẩn trọng về yếu tố sinh hóa, sự phù hợp giữa hai cơ thể người hiến và người nhận có thể dẫn đến hậu quả như mô, bộ phận cơ thể hiến, khi ghép sẽ không tương thích khi cơ sở y tế có chức năng ghép thực hiện phẫu thuật ghép mô, ghép bộ phận cơ thể từ người hiến sang người nhận. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là liệu điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể người khi sống và hiến sau khi chết có khác nhau không? Và điều kiện về sức khoẻ có đặt ra giống nhau trong trường hợp hiến để sử dụng vào các mục đích khác nhau không? Tác giả cho rằng hiến khi sống vì mục đích chữa bệnh với hiến sau khi chết cũng vì mục đích chữa bệnh thì điều kiện về sức khoẻ của người hiến hoàn toàn giống nhau, tuy nhiên việc hiến đó có khác chút đó là hiến sống thì phải bảo đảm an toàn tối đa cho người hiến, còn hiến sau khi chết thì vấn đề này ít (thậm chí không cần phải đặt ra).
Thứ hai, quyền lợi đối với người hiến
Pháp luật Hoa Kỳ quy định rất cụ thể về quyền lợi đối với người hiến
[14]: (i) Đối với người hiến sống, bảo hiểm của bệnh nhân ghép sẽ chi trả những chi phí y tế cho một người hiến như kiểm tra đánh giá, phẫu thuật và giới hạn các cuộc xét nghiệm. Tuy nhiên, bảo hiểm của bệnh nhân ghép có thể có hoặc không chi trả cho các dịch vụ nếu có sự cố xảy ra trong những khoản chi phí này. Bảo hiểm của bệnh nhân ghép thường không chi trả cho việc vận chuyển, ăn ở, điện thoại đường dài, chăm sóc trẻ em. Tuy nhiên, người hiến có thể trao đổi những khúc mắc liên quan đến tài chính với điều phối viên tài chính hoặc nhân viên xã hội của các cơ sở ghép. Họ có thể có được nguồn thích hợp cho người hiến (liên hệ với National Living Donor Assistance Center). Dịch vụ này có thể cung cấp hỗ chợ tài chính như chi phí đi lại, ăn ở và các khoản chi phí khác liên quan đến việc đánh giá, phẫu thuật và các dịch vụ khác (trong thời gian 90 ngày sau hiến). Các trung tâm ghép phải gửi các dòng dữ liệu tiếp cho UNOS về người hiến sống trong hai năm sau khi hiến; (ii) Với người hiến sau khi chết, chết não: sau khi chết, người hiến được đưa về tổ chức đám tang, nhân viên của OPO làm việc với bên nhà tang lễ để tổ chức tôn vinh người hiến và thực hiện ước nguyện của thân nhân người hiến về đám tang, sau hiến vẫn có thể tổ chức quan tài mở. Vai tuần sau đó, OPO sẽ gửi thư cho gia đình người hiến để họ biết được mô, bộ phận cơ thể hiến sẽ được sử dụng vào mục đích gì và cũng giữ bí mật về danh tính của người nhận. Hầu hết OPO vẫn tiếp tục hỗ trợ gia đình người hiến như an ủi nỗi đau mất người thân hay các sự kiện tưởng niệm.
Thứ ba, vấn đề xác định chết não trong trường hợp hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết
Đối với Italya (Ý), Luật 578/1993 về xác định chết não của Ý, hội đồng xác định chết não là một hội đồng độc lập gồm 3 bác sĩ chuyên khoa với thời gian quan sát trong 6 giờ, khi thấy bệnh nhân không có dấu hiệu hồi phục, lúc này hội đồng xác định bệnh nhân đã chết não. Ở Canada, pháp luật không quy định về khám nghiệm cận lâm sàng mà cho phép áp dụng các kỹ thuật mới để chẩn đoán chết não, thậm chí một kỹ thuật mới đang ở giai đoạn thử nghiệm cũng có thể được áp dụng.
Pháp luật Tây Ban Nha quy định điều kiện chẩn đoán chết não là hôn mê có nguyên nhân đã biết và đặc điểm không thể phản hồi
[15], phải có bằng chứng lâm sàng hoặc hình ảnh thần kinh về một tổn thương nghiêm trọng ở hệ thần kinh trung ương tương thích với tình trạng chết não. Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể Israel năm 2008, quy định rất nghiêm ngặt về cách thức và đối tượng chẩn đoán chết não, quy định việc sử dụng các xét nghiệm chẩn đoán khách quan như Doppler xuyên sọ, chụp mạch não và chụp cắt lớp vi tính phát xạ photon đơn (SPECT), xét nghiệm ngừng thở. Các bác sĩ được yêu cầu cung cấp bằng chứng bằng các xét nghiệm phụ trợ bắt buộc về việc não không hoạt động, không có máu lên não và không có ổ hô hấp. Sở dĩ luật có những quy định chặt chẽ như vậy là để đảm bảo tiêu chuẩn hóa quy trình chẩn đoán chết não đối với tất cả các bệnh việc ở Israel
[16].
Pháp luật Pháp quy định chỉ cần có 02 bác sĩ xác định chết não và không quy định cụ thể chuyên môn của từng người. Để chẩn đoán chết não, pháp luật Pháp quy định bắt buộc phải căn cứ vào kết quả khám nghiệm lâm sàng và khám nghiệm cận lâm sàng, xét nghiệm cận lâm sàng được thực hiện bằng một trong hai cách: Chụp điện não đồ 2 lần; Chụp động mạch não một lần. Ngoài ra, pháp luật nước này còn quy định về các dấu hiệu lâm sàng của chết não: Rơi vào trạng thái hôn mê sâu; mất nhận thức và mất mọi vận động tự nhiên; mất toàn bộ phản xạ của thân não; ngừng thở hoàn toàn.
Thứ tư, cơ quan quản lý hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người và ngân hàng mô
Đối với Tây Ban Nha, sau khi Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể được ban hành năm 1979, đến năm 1989, Tổ chức cấy ghép quốc gia Tây Ban Nha (ONT) ra đời đóng vai trò quan trọng trong việc giúp Tây Ban Nha trở thành một trong những nước đứng đầu thế giới về hiến mô, bộ phận cơ thể phục vụ chữa bệnh, giảng dạy, nghiên cứu khoa học. Ở Marốc, không có cơ quan độc lập ở mức độ quốc gia có trách nhiệm quản lý hoạt động hiến, ghép mô, bộ phận cơ thể mà nhiệm vụ này do Bộ Y tế Marốc trực tiếp quản lý và giao cho một Hội đồng tư vấn về ghép mô, bộ phận cơ thể quản lý. Để đảm bảo nguồn mô dự trữ cho việc cấy ghép, pháp luật Marốc quy định về việc thành lập các ngân hàng mô, nhưng đến năm 2006, quốc gia này mới chỉ tập trung vào nội dung đào tạo cho đội ngũ cán bộ y tế và các ca ghép giác mạc chủ yếu lấy từ nguồn nhập khẩu nước ngoài.
Đối với Pháp, để đảm bảo cho hoạt động hiến, lấy ghép mô, bộ phận cơ thể được tiến hành hiệu quả, Cộng hòa Pháp đã thành lập Trung tâm Cấy, ghép quốc gia từ rất sớm, Trung tâm này trước đây có Tổng Giám đốc chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ Y tế, khi Luật về Đạo đức y sinh quốc gia Pháp được ban hành thì Trung tâm này được đổi tên thành Cơ quan Y sinh quốc gia. Pháp luật Anh quy định về việc thành lập cơ quan quản lý mô người và cơ quan này có thể đưa ra sự hỗ trợ cho bất kỳ cơ quan cơ quan công quyền nào khác cho mục đích thực thi các chức năng, nhiệm vụ bởi cơ quan đó. Tại phụ lục 2 Luật về mô người năm 2004 của Anh quy định cơ quan quản lý mô người gồm: (i) Một chủ tịch (hội trưởng) được bổ nhiệm bởi Bộ trưởng; (ii) Số lượng các thành viên khác (đại biểu) được bổ nhiệm bởi Bộ trưởng khi Bộ trưởng cho là phù hợp; (iii) Một thành viên được bổ nhiệm bởi Quốc hội xứ Wales và (iv) Một thành viên được bổ nhiệm bởi các ban ngành liên quan của Bắc Ireland.
Thứ năm, cơ chế đồng ý hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết
Trong các bộ luật của các nước đã ban hành đều nằm ở một trong hai hệ thống: Hệ thống suy đoán đồng ý (Persumed consent system hay opting - out system) và hệ thống chủ động đồng ý (express consent system hay opting - in system). Ở các nước theo hệ thống suy đoán đồng ý như: Pháp, Tây Ban Nha, Na Uy, Bồ Đào Nha, Áo, Bỉ, Thụy Sỹ… pháp luật coi những người không thể hiện quan điểm đối lập với việc hiến mô, bộ phận cơ thể của họ khi chết. Hệ thống này dựa vào giá trị rằng các cá nhân sẵn sàng hiến mô, bộ phận cơ thể của họ. Còn những nước quy định theo hệ thống chủ động đồng ý như Anh, Newzealand, Đức, Hà Lan… thì quy định chỉ những bệnh nhân trước khi chết thể hiện nguyện vọng muốn hiến thì mới được coi là người hiến. Cả hai mô hình suy đoán đồng ý và chủ động đồng ý đều dựa trên nguyên lý
"sự mong muốn của người chết là cơ sở quyết định nó phải được tôn trọng".
Thực tế ở Tây Ban Nha cho thấy cơ chế suy đoán đồng ý mang lại hiệu quả khi gom mô, bộ phận cơ thể cao hơn cơ chế chủ động đồng ý. Tuy nhiên, thực tế áp dụng cho thấy hiện nay có một số quốc gia có thiên hướng theo cơ chế suy đoán đồng ý ngày càng tăng. Ví dụ như Anh, Hội Y học nước này trong những năm gần đây đã kêu gọi sự điều chỉnh pháp luật Anh từ chủ động đồng ý sang cơ chế suy đoán đồng ý (British Medical Asociation, 2003). Pháp luật Anh đưa ra sự đồng thuận thỏa đáng đối với trẻ em và người trưởng thành. Trước hết, đối với trẻ em, liên quan đến cơ thể, hoặc nội tạng/mô của một người là trẻ em hoặc một trẻ em đã chết ("đứa trẻ có liên quan"), trường hợp đứa trẻ có liên quan còn sống, "sự đồng thuận thỏa đáng" có nghĩa là quyết định của đứa trẻ đó; trường hợp đứa trẻ có liên quan còn sống thì quyết định của đứa trẻ đồng ý hoặc không đồng ý với hoạt động này không có hiệu lực và đứa trẻ không đủ thẩm quyền để giải quyết vấn đề liên quan đến hoạt động hiến mô, bộ phận cơ thể người; hoặc mặc dù có thẩm quyền giải quyết vấn đề đó nhưng đứa trẻ không thể làm được, và "sự đồng thuận thỏa đáng" có nghĩa là quyết định của một người có trách nhiệm giám hộ đối với đứa trẻ; đối với người trưởng thành thì "sự đồng thuận thỏa đáng" chính là quyết định hiến mô, bộ phận cơ thể người do chính cá nhân đó quyết định.
3. Kinh nghiệm áp dụng cho Việt Nam
Trên cơ sở phân tích khung pháp lý về hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người của một số nước trên thế giới, tác giả đưa ra một số kinh nghiệm để nghiên cứu quy định trong pháp luật Việt Nam như sau:
Một là, luật nên quy định cụ thể về điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể vì mục đích nghiên cứu khoa học và giảng dạy một cách chặt chẽ, bởi hiến mô, bộ phận cơ thể người là một trong hai mục đích quan trọng được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự năm 2015 (đó là mục đích chữa bệnh và nghiên cứu khoa học).
Hai là, đối với cơ chế đồng ý trong hiến mô, bộ phận cơ thể người. Pháp luật hiện hành của Việt Nam quy định đối với vấn đề hiến mô, bộ phận cơ thể của cá nhân khi còn sống cũng như sau khi chết theo mô hình cơ chế chủ động đồng ý (tức là chủ động đăng ký hiến bằng văn bản, nếu không đăng ký thì coi như người đó không đồng ý). Trong khi pháp luật một số nước như Tây Ban Nha, Pháp, các nước Bắc Âu theo cơ chế suy đoán sự đồng ý thì các nước thực hiện theo cơ chế này rất hiệu quả, số người đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể nhiều hơn hẳn so với các nước theo cơ chế chủ động đồng ý. Bên cạnh đó, các nước trên thế giới theo mô hình cơ chế chủ động đồng ý cũng đang vận động cho việc chuyển sang mô hình cơ chế suy đoán sự đồng ý (đặc biệt là hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết), bởi phần lớn nguồn mô, bộ phận cơ thể phục vụ mục đích chữa bệnh ở các nước phần lớn được lấy từ người hiến tặng sau khi chết. Việt Nam nên nghiên cứu chuyển sang cơ chế chủ động đồng ý cho phù hợp với cơ sở hạ tầng cũng như văn hóa của người dân đang nâng cao, về lâu dài khi cơ sở hạ tầng xã hội đã phát triển, nhận thức của người dân về ý nghĩa nhân đạo trong việc hiến, ghép mô, bộ phận cơ thể chữa bệnh cứu người, nghiên cứu khoa học… thì việc nghiên cứu quy định cơ chế suy đoán đồng ý là rất cần thiết.
Ba là, nên quy định về bảo hiểm y tế toàn dân vào trong Luật. Thực tế vấn đề này còn rất bất cập ở Việt Nam, người hiến phải trả toàn bộ chi phí cho việc hiến mô, bộ phận cơ thể của mình (chi phí khám sức khỏe, chi phí sàng lọc, chi phí phẫu thuật, chi phí chăm sóc sức khỏe sau hiến và các chi phí khác), điều này sẽ không khuyến khích được người nhiều người tự nguyện đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể. Do đó, nên xây dựng chính sách bảo hiểm y tế hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể trong chính sách chung về bảo hiểm y tế toàn dân.
Bốn là, nên mở rộng độ tuổi đối với người hiến tặng mô, bộ phận cơ thể chết não và thắt chặt hơn nữa quy định về hiến, tặng mô, bộ phận cơ thể khi còn sống để trách tình trạng lợi dụng về hình thức đăng ký hiến để mua bán mô, bộ phận cơ thể. Đối với người hiến, tặng mô, bộ phận cơ thể khi chết não thì nên quy định bất kỳ người nào nếu chết não (dù là người thành niên, người đã thành niên, người bị hạn chế hay mất năng lực hành vi dân sự) mặc dù không có thẻ đăng ký hiến tặng mô, bộ phận cơ thể nhưng được gia đình xác nhận là khi còn sống họ có nguyện vọng đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể nếu không may qua đời thì đều được hiến tặng mô, bộ phận cơ thể, tức là Luật nên sửa đổi theo hướng không giới hạn về độ tuổi đối với người hiến sau khi chết, chết não./.
[1] Khoản 1 Điều 6 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966.
[2] Kỷ yếu tọa đàm Dự thảo Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người, tài liệu tham khảo lưu hành nội bộ - Bản dịch cuả Nhà pháp luật Việt Pháp, Hà Nội, ngày 4,5/4/2006, tr.10.
[3]Điều 12, Luật Hiến tặng mô, bộ phận cơ thể người của Hà Lan.
[4]Điều 18 Luật Hiến, ghép mô, bộ phận cơ thể người Liên bang Nga.
[5] [5] Điều L.1232-1 Luật số 2004-800 ngày 6 tháng 8 năm 20004 về Đạo đức sinh học của Cộng hoà Pháp, tài liệu Hội thảo Dự thảo Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người, Nhà pháp luật Việt Pháp, Hà Nội ngày 4.5/4/2006.
[7]Điểm a, Điều 4, Luật Hiến, lấy, ghép bộ phận cơ thể người Tây Ban Nha
[8] Khoản 2 Điều 7 Nghị định Hoàng Gia 411/1996 quy định các hoạt động liên quan đến việc sử dụng mô, bộ phận cơ thể người Tây Ban Nha.
[9]Bùi Đức Hiển (2011),
Pháp luật một số quốc gia trên thế giới về hiến mô, bộ phận cơ thể và hiến xác của cá nhân, Chuyên đề cho đề tài khoa học cấp trường Đại học Luật Hà Nội, do PGS.TS Phùng Trung Tập – Chủ nhiệm đề tài.
[11]ThS.Nguyễn Hoàng Phúc (2021), Sđ d, tr.45.
[13]Điều L.1211-6/7 Bộ luật Y tế Cộng hòa Pháp.
[14]GS.TS. Trịnh Hồng Sơn (Chủ biên,2021,), Tlđd, tr.164-tr.165.
[15] Nguyễn Hoàng Phúc và Đoàn Thị Ngọc Hải (2021), Quy định về hiến tặng mô, tạng theo pháp luật một số nước trên thế giới và những gợi mở cho Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 7, tr.24.
[16] Rafael Beyar , M.D, Chanllenges in Organ Transplantation,
https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC3678939/, truy cập ngày 12/11/2021.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966;
2. Luật số 30/1979 ngày 27/10/1979 về lấy, ghép bộ phận cơ thể người của Tây Ban Nha;
3. Luật về mô người năm 2004 của Vương Quốc Anh;
4. Công ước về nhân quyền và Y sinh của Liên minh Châu Âu;
5. Luật Hiến, ghép mô, tạng của Bỉ;
6. Luật Hiến, ghép mô, tạng của Liên Bang Nga;
7. Luật Hiến, lấy, ghép mô tạng của Thụy Sỹ;
8. Điều L.1232-1 Luật số 2004-800 ngày 6/8/2004 về Đạo đức Y sinh của Cộng hòa Pháp;
9. Kỷ yếu tọa đàm Dự thảo Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người, tài liệu tham khảo lưu hành nội bộ - Bản dịch cuả Nhà pháp luật Việt Pháp, Hà Nội, ngày 4,5/4/2006, tr.10;
10. PGS.TS. Phùng Trung Tập (Chủ biên, 2013), Quyền hiến, lấy xác và bộ phận cơ thể người, Nxb Hà Nội, tr. 158-tr.159;
11. Điểm a, Điểu 4, Luật Hiến, lấy, ghép bộ phận cơ thể người của Tây Ban Nha;
12. Nguyễn Hoàng Phúc & Đoàn Thị Ngọc Hải (2021), Quy định về hiến tặng mô, tạng theo pháp luật một số nước trên thế giới và những gợi mở cho Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 7, tr.24.