Liên kết website

Một số kết quả phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em

08/06/2022

Trẻ em là tương lai của đất nước, là mầm non để chúng ta cần nâng niu và phát triển. Trẻ em cũng chính là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình và của mỗi đất nước.

1. Một số quyền cơ bản của trẻ em theo quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam hiện hành
1.1. Một số quyền cơ bản của trẻ em theo quy định pháp luật quốc tế
Trong Bộ luật Nhân quyền quốc tế, quyền trẻ em được chế định chủ yếu trong Công ước về quyền trẻ em (CRC, năm 1989) và hai nghị định thư không bắt buộc bổ sung CRC được thông qua năm 2000 (Nghị định thư về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em và Nghị định thư về sự tham gia của trẻ em trong xung đột vũ trang). Trong đó khái niệm “trẻ em” được xác định là những người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, đây là một điều luật mở cho các quốc gia thành viên. Theo đó, các quốc gia thành viên có thể quy định các quyền trẻ em được bắt đầu ngay khi mang thai hay sau khi ra đời; về độ tuổi được coi là trẻ em thấp hơn 18 tuổi so với quy định của CRC. Quyền trẻ em được quy định dưới 04 dạng, trong đó 02 dạng đầu là quyền trực tiếp; hai dạng sau, tạm gọi là quyền gián tiếp hay quyền thụ động:
- Quyền được sống và phát triển, có họ tên và quốc tịch,...
- Tự do (hay quyền cơ bản) tiếp nhận thông tin, tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo,...
- Trách nhiệm của cha mẹ và xã hội: Thực hiện các quyền trẻ em, có quyền và nghĩa vụ định hướng và đưa ra những chỉ dẫn phù hợp,...
- Bảo vệ của cha mẹ và xã hội khỏi sự bóc lột và lạm dụng tình dục, khỏi bị mua bán và bắt cóc, khỏi bị tra tấn và tước đoạt tự do, khỏi ảnh hưởng của xung đột vũ trang,...
Nội dung quyền trẻ em trong CRC được phân thành 04 nhóm: (i) Nhóm quyền được sống hay được tồn tại (các Điều 5, 6, 24, 26, 27); (ii) Nhóm quyền được bảo vệ (các Điều 2, 7, 8, 9, 10, 11, 16, 19, 20, 21, 22, 23, 25, 32, 33, 34, 35, 36, 37, 38, 39, 40); (iii) Nhóm quyền được phát triển (các Điều 17, 18, 28, 29, 31, 32); (iv) Nhóm quyền được tham gia (các Điều 12, 13, 14, 15, 17, 30).
1.2. Một số quyền cơ bản của trẻ em được quy định theo pháp luật Việt Nam hiện hành
Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước của Liên Hiệp quốc về quyền trẻ em vào ngày 20/02/1990. Ở Việt Nam, quyền trẻ em đã được hiến định từ Hiến pháp năm 1946 (trực tiếp là các Điều 14, 15 và được hàm chứa trong một số điều khác) và trong tất cả các bản Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 (gồm cả lần sửa đổi, bổ sung vào năm 2001) và năm 2013. Trong Hiến pháp năm 1992, quyền trẻ em được chế định trực tiếp trong Điều 40 và được hàm chứa trong một số điều khác (Điều 50...) và trong Hiến pháp năm 2013, quyền trẻ em được quy định trực tiếp tại khoản 1 Điều 37, cụ thể: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”. Quyền trẻ em cũng được quy định trong nhiều bộ luật và luật, mà tập trung là Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và Luật Trẻ em năm 2016; Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009. Một số quyền cơ bản của trẻ em, cụ thể:
- Quyền sống: Theo CRC thì quyền sống là quyền đầu tiên trẻ em được hưởng và phải bảo vệ. Với ý nghĩa đó, Việt Nam đã kế thừa và quy định chặt chẽ việc bảo vệ quyền sống của con người nói chung và quyền sống của trẻ em nói riêng. Nội dung này được quy định trong Điều 19 Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” và Điều 12 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: “Trẻ em có quyền được bảo vệ tính mạng, được bảo đảm tốt nhất các điều kiện sống và phát triển”. Ngoài ra, nội dung của quyền này còn được ghi nhận tại khoản 1 Điều 33 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Cá nhân có quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân thể, quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”.
- Quyền được khai sinh: Đây là một trong những quyền dân sự cơ bản, quan trọng của con người có từ khi sinh ra, để được công nhận là một thành viên của xã hội và là công dân của một Nhà nước. Nội dung của quyền này được quy định tại khoản 1 Điều 7 CRC, Điều 13 Luật Trẻ em năm 2016 và khoản 1 Điều 26 Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo đó, mọi trẻ em khi sinh ra đều có quyền được khai sinh. Giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của mỗi cá nhân và là căn cứ khẳng định trẻ em sinh ra là một công dân của quốc gia đó. Về mặt pháp lý, đây là cơ sở, tiền đề bắt buộc để từ đó cá nhân được hưởng và đòi hỏi được hưởng các quyền con người, quyền công dân của mình.
- Quyền có quốc tịch: Luật Quốc tịch năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mỗi cá nhân đều có quyền có quốc tịch”, điều này có nghĩa là mọi trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam đều có quyền có quốc tịch. Theo quy định, quốc tịch của trẻ em chủ yếu phụ thuộc vào quốc tịch của cha mẹ. Cụ thể: Điều 15, Điều 16 và Điều 17 Luật Quốc tịch năm 2008 nêu rõ những trường hợp trẻ em được xác định là có quốc tịch Việt Nam.
- Quyền được chăm sóc sức khỏe: Điều 14 Luật Trẻ em năm 2016 quy định “Trẻ em có quyền được chăm sóc tốt nhất về sức khỏe, được ưu tiên tiếp cận, sử dụng dịch vụ phòng bệnh và khám bệnh, chữa bệnh” và Điều 84 Luật Trẻ em năm 2016 cũng quy định rất rõ vai trò, trách nhiệm của Bộ Y tế trong việc bảo đảm trẻ em được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe có chất lượng và công bằng tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Điều 43 Luật Trẻ em năm 2016 quy định về trách nhiệm của Nhà nước trong việc ban hành, thực hiện các chính sách về bảo đảm chăm sóc sức khỏe trẻ em, bao gồm việc tư vấn, bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ mang thai, các chính sách giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em, chính sách về tiêm chủng, bảo đảm an toàn thực phẩm, chính sách bảo hiểm y tế… Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 xác định trẻ em dưới 06 tuổi được ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh là một nguyên tắc trong hành nghề khám bệnh, chữa bệnh (Điều 3) và chính sách của Nhà nước là quan tâm dành ngân sách cho việc chăm sóc sức khỏe đối với trẻ em (Điều 4). Điều này thể hiện sự quan tâm của Nhà nước ta đối với vấn để bảo đảm chăm sóc sức khỏe của trẻ em.
- Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng: Điều 15 Luật Trẻ em năm 2016 khẳng định: “Trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng để phát triển toàn diện”. Bên cạnh đó, Điều 42 Luật Trẻ em năm 2016 còn xác định Nhà nước phải có những chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thực hiện việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em, đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Bên cạnh gia đình, các cơ sở giáo dục cũng có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em. Thực tế cho thấy, nhà trường có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của trẻ em cũng như chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em. Bởi vì, phần lớn thời gian của trẻ trong độ tuổi này được chăm sóc ở các cơ sở giáo dục.
- Quyền được giáo dục, học tập và phát triển năng khiếu: Điều 16 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: Trẻ em có quyền và bình đẳng về cơ hội được giáo dục, học tập để phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng của bản thân. Quy định này thể hiện việc Nhà nước trao quyền học tập cho trẻ em và bảo đảm mọi trẻ em được bình đẳng trước các cơ hội hưởng quyền học tập dù hoàn cảnh và điều kiện sống khác nhau. Điều 14 Luật Giáo dục năm năm 2019 quy định: Nhà nước đảm bảo các điều kiện để thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở trong cả nước… Gia đình, người giám hộ có trách nhiệm tạo điều kiện cho các thành viên của gia đình trong độ tuổi quy định được học tập để thực hiện phổ cập giáo dục và hoàn thành giáo dục bắt buộc.
- Quyền vui chơi, giải trí: Nội dung này được quy định tại Điều 17 Luật Trẻ em năm 2016: “Trẻ em có quyền vui chơi, giải trí; được bình đẳng về cơ hội tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch phù hợp với độ tuổi”.
- Quyền có tài sản: Điều 20 Luật Trẻ em năm 2016 khẳng định: “Trẻ em có quyền sở hữu, thừa kế và các quyền khác đối với tài sản theo quy định của pháp luật”. Nhằm cụ thể nội dung Điều 20,  Điều 101 Luật này nêu rõ: Cha, mẹ, người giám hộ của trẻ em và các thành viên trong gia đình có trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em; đại diện cho trẻ em trong các giao dịch dân sự theo quy định của pháp luật; chịu trách nhiệm trong trường hợp để trẻ em thực hiện giao dịch dân sự trái pháp luật. Cha, mẹ, người giám hộ của trẻ em phải giữ gìn, quản lý tài sản của trẻ em và giao lại cho trẻ em theo quy định của pháp luật. Trường hợp trẻ em gây thiệt hại cho người khác thì cha, mẹ, người giám hộ của trẻ em phải bồi thường thiệt hại do hành vi của trẻ em đó gây ra theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, Điều 76 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 còn quy định “Tài sản riêng của con dưới 15 tuổi, con mất năng lực hành vi dân sự do cha mẹ quản lý. Cha mẹ có thể ủy quyền cho người khác quản lý tài sản riêng của con”. Trẻ em chưa có đủ năng lực quản lý, định đoạt tài sản riêng nên pháp luật quy định trách nhiệm thuộc về cha, mẹ, người giám hộ trong việc quản lý và định đoạt tài sản riêng của trẻ em.
- Quyền được sống chung với cha, mẹ: Điều 22 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: “Trẻ em có quyền được sống chung với cha, mẹ; được cả cha, và mẹ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, trừ trường hợp cách ly cha, mẹ theo quy định của pháp luật hoặc vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Khi phải cách ly cha, mẹ, trẻ em được trợ giúp để duy trì mối liên hệ và tiếp xúc với cha, mẹ, gia đình, trừ trường hợp không vì lợi ích tốt nhất của trẻ em”. Trong một số trường hợp trẻ em phải sống cách ly cha, mẹ như: Khi cha và mẹ đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang phải chấp hành hình phạt tù (trừ những trẻ em dưới 36 tháng tuổi vẫn có thể ở chung với cha, mẹ trong tù); khi cha, mẹ bị Tòa án quyết định không cho chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; khi cha, mẹ đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội; khi cha, mẹ đang chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiên bắt buộc… Điều này cũng quy định trách nhiệm cụ thể của các chủ thể có liên quan trong việc chăm sóc thay thế trẻ em trong những tình huống kể trên, theo đó, Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tổ chức việc chăm sóc thay thế cho trẻ em phải sống cách ly cha, mẹ.
- Quyền được tham gia: Quyền này không được quy định riêng biệt trong CRC nhưng là tiền đề để trẻ em thực hiện các quyền khác của mình. Luật Trẻ em năm 2016 dành riêng 1 chương quy định về quyền tham gia của trẻ em. Theo đó, trẻ em được tham gia vào tất cả những vấn đề liên quan đến trẻ em thông qua các hình thức như: Diễn đàn, hội nghị, hội thảo, tọa đàm, sự kiện; thông qua tổ chức đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em.
- Quyền được bảo vệ: Luật Trẻ em năm 2016 quy định về nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em. Theo đó, trẻ em được bảo vệ khỏi sự phân biệt đối xử, thoát khỏi sự bóc lột về kinh tế, sự lạm dụng, xâm hại về thể xác và tinh thần, bị lơ là và bỏ rơi, bị đối xử tàn tệ, các em phải được bảo vệ trong tình trạng khẩn cấp, khủng hoảng. Trong đó có quyền được bảo vệ trong tố tụng và xử lý vi phạm hành chính: Trẻ em có quyền được bảo vệ trong quá trình tố tụng và xử lý vi phạm hành chính; bảo đảm quyền được bào chữa và tự bào chữa, được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp; được trợ giúp pháp lý, được trình bày ý kiến, không bị tước quyền tự do trái pháp luật; không bị tra tấn, truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể, gây áp lực về tâm lý và các hình thức xâm hại khác.
Các chế tài hình sự xử lý đối với các hành vi bạo lực và xâm hại trẻ em theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
Các quyền trên của trẻ em được pháp luật bảo vệ và có chế tài hình sự đối với các hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em. Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực vào ngày 01/01/2018 dành các điều luật và quy định khung hình phạt đối với các hành vi bạo lực, xâm hại và phạm tội với trẻ em khung hình phạt đối với các tội này rất nghiêm khắc. Tháng 9/2019, Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao thông qua Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định về các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ luật Hình sự và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi. Nghị quyết đã tạo nên cơ sở pháp lý mạnh mẽ hơn để bảo vệ một cách công bằng cả trẻ em gái và trẻ em trai dưới 18 tuổi khỏi xâm hại tình dục, tháo gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn và quy định nhiều biện pháp để quá trình xét xử thân thiện hơn, nhạy cảm hơn và đáp ứng tốt hơn nhu cầu đặc biệt của người chưa thành niên, theo tinh thần của Công ước, điều ước quốc tế.
2. Tình trạng trẻ em bị bạo lực trong thời gian qua
Thời gian qua, tình trạng trẻ em bị xâm hại ngày càng diễn biến phức tạp, gia tăng về mức độ, số lượng vụ việc, nhất là bóc lột sức lao động của trẻ em, các vụ hiếp dâm, dâm ô trẻ em, bạo hành gia đình, bạo lực học đường... Những vụ việc xâm hại trẻ em liên tiếp được công khai làm rúng động dư luận và cảnh báo “đỏ” về sự an toàn của những đứa trẻ và sự xuống cấp về đạo đức, ý thức pháp luật của những người trưởng thành.
Theo số liệu thống kê của Bộ Công an, chỉ tính riêng năm 2020 cả nước phát hiện 1.945 vụ, xâm hại 2.008 trẻ em (trong đó xâm hại tình dục 1.349 vụ, 1.576 trẻ em bị xâm hại tình dục). Khoảng 97% số vụ được phát hiện những kẻ xâm hại tình dục có quen biết với nạn nhân. Đáng lo ngại hơn, khi xâm hại tình dục trẻ em đã len lỏi và xuất hiện trong cơ sở giáo dục - một môi trường vốn được coi là an toàn, lành mạnh để các em rèn luyện và hoàn thiện nhân cách, người xâm hại lại chính là những người được quyền dạy dỗ nhân cách cho chính các em.
Đặc biệt, thời gian gần đây, chúng ta đang chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh Covid-19, thực hiện giãn cách xã hội khiến hàng triệu trẻ em không được tới trường. Do hạn chế tiếp xúc bạn bè, giáo viên, các thành viên gia đình, xã hội đã khiến trẻ em trở nên dễ bị tổn thương hơn. Thêm vào đó, việc học tập, giải trí của nhiều em gần như gắn chặt với máy tính, điện thoại và internet, hạn chế việc tham gia vui chơi ở ngoài dẫn tới trẻ em có nhiều nguy cơ hơn bị xâm hại trên môi trường mạng… Theo thống kê từ Tổng đài quốc gia bảo vệ trẻ em 111, trong 6 tháng đầu năm 2021, Tổng đài đã tiếp nhận 171.019 cuộc gọi đến, trong đó có 706 ca phải hỗ trợ, can thiệp (tăng 299 ca so với cùng kỳ năm trước). Trong các ca hỗ trợ, can thiệp cho trẻ em, có 362 ca bạo lực trẻ em, chiếm 51,27% (cao hơn cùng kỳ năm 2020 là 167 ca, tương đương 3,36%); 122 ca xâm hại tình dục trẻ em, chiếm 17,28% (tăng hơn cùng kỳ năm trước 13 ca). Trong đó, tỷ lệ trẻ em bị bạo lực trong gia đình tăng 3% so với cùng kỳ năm 2020, đây là điều đáng báo động về phương pháp giáo dục của cha mẹ/người chăm sóc đối với trẻ em. Đối với các ca bị xâm hại tình dục, có 71 ca hiếp dâm trẻ em, chiếm 58,2% (tăng 16 ca so với cùng kỳ 2020), 51 ca dâm ô trẻ em, chiếm 25,4% (tăng 21 ca so với cùng kỳ năm 2020). Tỷ lệ trẻ em bị xâm hại tình dục bởi bạn bè, người quen chiếm 31,1%; bởi người thân trong gia đình vẫn tương đối cao, chiếm 23,8% (tăng 5,4% so với cùng kỳ năm 2020).
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên, trước hết phải kể đến nhận thức của các gia đình, cộng đồng về vấn đề bảo vệ trẻ em chưa đầy đủ và phần nào đó còn bị xem nhẹ; nhiều thói quen, phong tục, tập quán có hại cho trẻ em chưa được các cấp, các ngành quan tâm đấu tranh loại bỏ, như một số người cho rằng đánh con là việc “bình thường”. Việc ngược đãi, xâm hại, bạo lực, bóc lột đối với trẻ em chưa được cộng đồng chủ động phát hiện sớm và báo cho các cơ quan chức năng xử lý, can thiệp kịp thời, vì họ không muốn có sự “rắc rối” liên quan đến họ. Sự dồn nén tâm lý của một người do những khó khăn về kinh tế hoặc vì các chất kích thích cũng là nguyên nhân dẫn đến bạo hành trẻ em. Thời gian phải giãn cách xã hội do Covid-19 vừa qua cho thấy, sự hạn chế di chuyển và các biện pháp cách ly khác kèm theo áp lực về xã hội, kinh tế hiện hữu đã làm gia tăng bạo lực gia đình đặc biệt là ở trẻ em và phụ nữ.
Trong khi đó, vai trò bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em của gia đình, cộng đồng và bên cạnh đó, trách nhiệm của các cơ quan chức năng thuộc lĩnh vực này còn thiếu trách nhiệm, buông lỏng quản lý, chưa phát huy hết vị trí, vai trò của mình trong việc bảo vệ trẻ em, kiến thức, kỹ năng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của cha mẹ, người chăm sóc trẻ và của chính bản thân trẻ chưa đầy đủ dẫn đến năng lực bảo vệ trẻ em của gia đình, cộng đồng còn hạn chế, trẻ em dễ trở thành nạn nhân của các hành vi bạo lực, xâm hại tình dục và dễ bị lôi kéo vào con đường phạm tội. Tình trạng nhiều gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn; cha mẹ ly hôn, ly thân; cha mẹ mắc các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật… cũng là nguyên nhân dẫn đến việc trẻ em bỏ học, lang thang kiếm sống và bị bạo lực.
Thực trạng và tình hình bạo lực đối với trẻ em không chỉ dừng lại ở câu chuyện bạo lực về thể chất mà còn liên quan đến yếu tố về tinh thần. Có thể có những vết thương, và những vết thương này có thể lành theo năm tháng nhưng vết thường về mặt tinh thần thì sẽ để lại di chứng rất nhiều năm nếu không có sự can thiệp một cách triệt để và có những giải pháp để tư vấn tâm lý, trị liệu tâm lý cho trẻ em đang trong hoàn cảnh bị bạo lực. Trẻ em thuộc nhóm yếu thế, phụ thuộc vào người lớn, vào người sinh ra và đang nuôi dưỡng các em nên khả năng tự bảo vệ, nhận ra bị bạo lực và những quyền của mình như thế nào.
Phản ứng về mặt tâm lý khi trẻ em đối mặt với những tình huống bạo lực là rất lớn ngay cả trước khi tình huống bạo lực xảy ra. Ảnh hướng đến sự tự tin, sự lo sợ. Những trận đòn roi đó không chỉ ám ảnh các em đang thức mà nó in hằn vào trong giấc mơ, các em mơ về những giấc mơ các em bị bạo lực, nó quay trở lại những tình huống mà các em phải khóc mới giải tỏa được. Trong tiến trình phát triển về mặt tâm lý, mặt thể chất của các em cũng sẽ bị ảnh hưởng. Các em cảm thấy bị cô lập với thế giới và các em cũng có thể trở thành một phiên bản bạo lực trong tương lai, các em sử dụng những khuôn mẫu hành vi bạo lực đó với bạn bè, những người xung quanh và thậm chí là với những đứa con của các em sau này.
3. Một vài kết quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em
Các chủ trương, chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em được phổ biến đến: đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý văn hóa, gia đình, thể thao và du lịch các cấp của ngành; các cơ quan, tổ chức, cá nhân làm việc trong cơ sở du dịch, lữ hành, lưu trú khách sạn; trong hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao ở cơ sở; các đơn vị, cá nhân tổ chức các sự kiện về văn hóa, nghệ thuật, thể thao và du lịch và các gia đình.
Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em tập trung vào trách nhiệm của toàn ngành trong việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em; phòng chống bạo lực gia đình, tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình và giáo dục đời sống gia đình; các nội dung của phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng nông thôn mới, thực hiện nếp sống văn minh… Trong đó tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của công tác gia đình và đây cũng là giải pháp quan trọng để phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em.
Việc phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em được tổ chức theo nhiều hình thức đa dạng, phong phú và đã đạt được những kết quả nhất định, cụ thể: Lồng ghép các nội dung, quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em trong các hoạt động truyền thông về gia đình và công tác gia đình nhân các ngày kỷ niệm về gia đình: Ngày Quốc tế Hạnh phúc 20/3 với chủ đề “Yêu thương, chia sẻ”, Ngày Gia đình Việt Nam 28/6 với chủ đề “Bữa cơm gia đình, ấm áp yêu thương”, Tháng hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình với chủ đề “Gia đình – Nguồn lực và trách nhiệm trong phòng, chống bạo lực gia đình”. Cùng với những thông điệp truyền thông như “Bảo vệ trẻ em an toàn ngay tại gia đình là trách nhiệm của các thành viên trong gia đình”, “Bạo lực gia đình làm suy giảm khả năng học tập và sự phát triển toàn diện của trẻ em”, “Bảo vệ trẻ em trong gia đình bằng hạnh phúc, bình yên”… được tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên hệ thống băng rôn áp phích ở 63/63 tỉnh, thành.
Cũng nhân các dịp này, nhiều tỉnh, thành đã tổ chức gặp mặt tôn vinh gia đình văn hóa tiêu biểu; tuyên dương những gia đình có hoàn cảnh khó khăn vươn lên nuôi con tốt, dạy con ngoan; tọa đàm trao đổi kinh nghiệm trong xây dựng gia đình hạnh phúc, không bạo lực; Tổ chức hội nghị tập huấn phổ biến, giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa, gia đình, thể thao và du lịch các cấp để cập nhật, bổ sung kiến thức pháp luật về những quy định mới, văn bản mới liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của ngành, trong đó có nội dung về phòng, chống xâm hại trẻ em. Một số tỉnh như Phú Yên, Hải Dương, Quảng Ninh, Đồng Tháp… đã tổ chức tập huấn tại các thôn, xóm; Xây dựng, in và phát hành các tài liệu để nâng cao, hoàn thiện trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình các cấp để cung cấp cho các thành viên gia đình những kiến thức kỹ năng xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh phúc góp phần giáo dục đạo đức, lối sống và hình thành nhân cách, bảo đảm an toàn cho trẻ em trong gia đình, cụ thể: Tài liệu tập huấn công tác gia đình; Tài liệu về giáo dục đời sống gia đình, triển khai đến 63 tỉnh, thành và các cơ quan liên quan. Trong đó có nội dung cung cấp cho các thành viên trong gia đình các kiến thức, kỹ năng chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em; những việc cần làm khi phát hiện trẻ em bị xâm hại, bạo lực; cung cấp cho trẻ em kỹ năng để tự bảo vệ bản thân trước những nguy cơ bị xâm hại, bạo lực. Xây dựng Bộ tài liệu thí điểm “Bộ tiêu chí ứng xử trong gia đình” với tiêu chí ứng xử chung là: tôn trọng, bình đẳng, yêu thương, chia sẻ. Tiêu chí ứng xử của cha, mẹ với con; ông, bà với cháu: Gương mẫu, Yêu thương. Chính tình yêu thương của ông bà, cha mẹ dành cho con cháu sẽ là yếu tố đầu tiên để bảo vệ trẻ em trước nguy cơ bị bạo lực, xâm hại trong gia đình và ngoài xã hội.
Nội dung các tài liệu trên đã được phổ biến, tiếp cận với người dân bằng nhiều hình thức khác nhau như trên các phương tiện thông tin đại chúng, hệ thống loa phát thanh, tài liệu tại các hệ thống thư viện, qua các buổi sinh hoạt câu lạc bộ Gia đình hạnh phúc, Phòng, chống bạo lực gia đình, trong các buổi họp tổ/thôn/xóm… ở cơ sở. Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, Hội thi Câu lạc bộ gia đình hạnh phúc, cuộc thi sáng tác kịch bản sân khấu, viết về tấm gương điển hình trong phòng, chống bạo lực gia đình, cuộc thi sáng tác tranh cổ động về phòng, chống xâm hại trẻ em… Tổ chức, chỉ đạo các địa phương phát huy những thế mạnh của ngành là phòng, chống xâm hại trẻ em thông qua hình thức sân khấu hóa, qua các tác phẩm âm nhạc, văn học, nghệ thuật, kịch nói, hội họa, điện ảnh…
Do thiếu nguồn lực nên nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật về trẻ em, phòng, chống xâm hại trẻ em chủ yếu được lồng ghép với các nhiệm vụ khác. Vì thế hiệu quả của công tác này bị hạn chế. Khả năng tiếp cận thông tin về pháp luật của trẻ em và gia đình, nhất là tại vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số và miền núi; quyền được thông tin về pháp luật của trẻ em chưa được bảo đảm thực hiện đầy đủ. Công tác truyền thông về quyền của trẻ em thuộc trách nhiệm của ngành, nhất là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt chưa được thực hiện đồng đều ở các địa phương, có nơi chưa thực sự hiệu quả, nội dung chưa phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi nên nhiều trẻ em chưa được trang bị đầy đủ kiến thức pháp luật cần thiết để bảo vệ các quyền lợi của mình. Công tác phối hợp thông tin, truyền thông về pháp luật để phòng, chống xâm hại trẻ em ở cơ sở còn chưa thường xuyên, chặt chẽ. Nội dung, hình thức phổ biến giáo dục pháp luật ở một số địa phương còn nghèo nàn, chưa phong phú, chậm đổi mới để phù hợp với đối tượng, địa bàn; chưa phát huy được thế mạnh, ưu điểm của hình thức tuyên truyền thông qua sân khấu hóa, âm nhạc, phim ảnh, hoạt động nghệ thuật; nguồn lực bảo đảm cho công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, về xâm hại trẻ em nói riêng chưa đáp ứng được với yêu cầu thực tiễn.
Hiểu biết về pháp luật, kỹ năng phòng ngừa, kỹ năng chăm sóc và phục hồi cho trẻ bị xâm hại tình dục về thể chất và tâm lý của nhiều cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em trong gia đình còn hạn chế.
4. Một vài kết quả của trợ giúp pháp lý trong phòng, chống bạo lực đối với trẻ em
Luật Trợ giúp pháp lý lần đầu được Quốc hội ban hành vào năm 2006 và qua 10 năm triển khai đã đạt được những thành quả đáng kể trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em không nơi nương tựa và các đối tượng khác thuộc diện được TGPL. Ngày 20/6/2017, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 thay thế Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 với nhiều nội dung mới nổi bật, trong đó đã mở rộng thêm một số nhóm đối tượng được trợ giúp pháp lý như: tất cả trẻ em (không phân biệt hoàn cảnh, giới tính, dân tộc...); người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự có khó khăn về tài chính... Chỉ riêng trẻ em, có 24.776.733 em, chiếm 25,75% trên tổng dân số thuộc diện được TGPL.
Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đã bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý của người dưới 16 tuổi (trẻ em), nội luật hoá đầy đủ nội dung Công ước quốc tế về quyền được trợ giúp pháp lý của trẻ em không phân biệt giới tính, dân tộc, tình trạng khó khăn tài chính, có nơi nương tựa hay không... Theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý thì trẻ em là người bị hại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, người bị buộc tội được trợ giúp pháp lý bằng các hình thức tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng và đại diện ngoài tố tụng trong các lĩnh vực pháp luật hình sự, dân sự, hành chính.
Cùng với Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 nhiều văn bản hướng dẫn liên quan đến trợ giúp pháp lý được ban hành tạo cơ sở pháp lý khá toàn diện, nhằm cung cấp dịch vụ pháp lý kịp thời, có chất lượng cho người được trợ giúp pháp lý, trong đó có trẻ em. Ví dụ, Thông tư số 08/2017/TT-BTP đó quy định các loại giấy tờ chứng minh người thuộc diện được trợ giúp pháp lý là trẻ em; Thông tư liên tịch số 10/2018 quy định trách nhiệm của các cơ quan, người tiến hành tố tụng phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng nhằm bảo đảm tốt nhất quyền được tiếp cận công lý, quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ trong tố quá trình tố tụng. Gần đây, liên ngành Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp đã liên tịch ban hành Thông tư liên tịch số 05/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP ngày 15/12/2021 hướng dẫn thi hành tổ chức phiên tòa trực tuyến, trong đó quy định Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước là điểm cầu trong phiên tòa trực tuyến. Quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho người được trợ giúp pháp lý, trong đó có trẻ em tham gia tố tụng, nhất là trong bối cảnh covid-19 hoặc nhiều lý do khách quan khác, người được trợ giúp pháp lý (trong đó có trẻ em) không thể đến trụ sở Tòa án, nơi xét xử được.
Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cũng đã kịp thời ban hành các văn bản triển khai chính sách liên quan đến bảo vệ và trợ giúp pháp lý cho trẻ em như: Triển khai thực hiện Chương trình hành động Quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2021 - 2030 (Quyết định 1731/QĐ-BTP ngày 17/01/2021); Triển khai Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2030 và Chương trình về phòng, chống bạo lực gia đình trong tình hình mới đến năm 2025 (Công văn số 536/BTP-TGPL ngày 25/02/2022); Triển khai Chương trình Phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới giai đoạn 2021 – 2025 (Công văn số 4878/BTP-TGPL ngày 23/12/2021); Triển khai Chương trình phòng, chống mua bán người (Công văn số 391/BTP-TGPL ngày 14/02/2022), trong đó có chú trọng đến đối tượng là trẻ em... Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp và tác động nhiều mặt đối với trẻ em, Cục Trợ giúp pháp lý đã kịp thời chỉ đạo các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý tăng cường trợ giúp pháp lý cho trẻ em, nhất là trẻ em bị mồ côi do đại dịch Covid-19 (Công văn số 437/CTGPL-TC&QLCL ngày 01/10/2021).
Trong những năm qua, cùng với sự quan tâm của các ngành, các cấp, cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã có chuyển biến tích cực và đạt được nhiều thành tựu quan trọng, bảo đảm thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền của trẻ em. Trong hoạt động trợ giúp pháp lý, để bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho trẻ em theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, trong thời gian qua Bộ Tư pháp (Cục Trợ giúp pháp lý) và các địa phương (Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước) đã chủ động, tích cực triển khai các hoạt động trợ giúp pháp lý cho trẻ em và đạt được một số kết quả sau đây:
Để nâng cao ý thức trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cộng đồng xã hội đối với trẻ em, thời gian qua, Cục Trợ giúp pháp lý đã tăng cường các hoạt động truyền thông để trẻ em được tiếp cận, thụ hưởng dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí của Nhà nước một cách kịp thời, hiệu quả. Cục đã phối hợp với các cơ quan truyền thông để thực hiện hoạt động truyền thông với nhiều hình thức đa dạng, phong phú trên Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) xây dựng, phát sóng nhiều thông điệp, phóng sự, tọa đàm, chuyên mục về công tác trợ giúp pháp lý, trong đó có trợ giúp pháp lý cho trẻ em, ví dụ thông điệp về “quyền được trợ giúp pháp lý cho trẻ em”, phóng sự về “trợ giúp pháp lý cho người chưa thành niên”, phóng sự “trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bị mua bán người”, Chương trình giao lưu, đối thoại trực tuyến với chủ đề: “Trợ giúp pháp lý cho thanh thiếu niên và nhi đồng thuộc nhóm đối tượng yếu thế”…; xây dựng các video truyền thông về trợ giúp pháp lý cho trẻ em bị bạo lực, bị xâm hại[i]... Các hoạt động truyền thông này đã thu hút được sự quan tâm, phản hồi tích cực từ phía người dân và các cơ quan, tổ chức có liên quan, từ đó, nâng cao nhận thức của người dân nói chung, trẻ em và người thân của họ về trợ giúp pháp lý và quyền trợ giúp pháp lý. Ở địa phương, các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tăng cường phối hợp chặt chẽ với cơ quan thông tin, truyền thông, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị, xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, chính quyền cơ sở để truyền thông về trợ giúp pháp lý cho trẻ em bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú (thông qua các đợt truyền thông, các kênh thông tin đại chúng, bảng tin, hộp tin, tờ gấp… về trợ giúp pháp lý).
Trong thời gian qua, các tổ chức và người thực hiện trợ giúp pháp lý trong cả nước đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo kịp thời của các cấp chính quyền, các cơ quan tổ chức hữu quan ở Trung ương và địa phương; sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan, tổ chức, đặc biệt là các cơ quan tiến hành tố tụng ở Trung ương và địa phương… trong việc thông tin, thông báo và phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý, đặc biệt là trợ giúp pháp lý cho trẻ em bị xâm hại, bạo lực. Triển khai thực hiện Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 29/6/2018 quy định về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng (trong đó có phối hợp chuyển gửi án chỉ định có người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cho Trung tâm trợ giúp pháp lý thực hiện) công tác phối hợp giữa Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và các cơ quan tiến hành tố tụng được thực hiện một cách nghiêm túc; tạo điều kiện cho người thực hiện TGPL tham gia đầy đủ các hoạt động tố tụng và bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em... Đồng thời, các địa phương cũng đang triển khai các quy định của Thông tư liên tịch số 05/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP ngày 15/12/2021 của liên tịch Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người được trợ giúp pháp lý, trong đó có trẻ em tham gia tố tụng theo hình thức trực tuyến. Ngày 19/5/2022, Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao ký chương trình phối hợp số 1603/CTPH-BTP-TANDTC về người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại Tòa án nhân dân nhằm bảo đảm tốt nhất và kịp thời cho người được trợ giúp pháp lý, trong đó có trẻ em.
Trong thời gian qua, nhất là trong bối cảnh cả nước bị ảnh hưởng của đại dịch Covid – 19, các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý trên cả nước đã có nhiều cố gắng trong thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý cho trẻ em. Số lượng trẻ em được tiếp cận dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí của Nhà nước ngày càng tăng. Trong 04 năm thực hiện Luật Trợ giúp pháp lý nâm 2017, tính đến hết năm 2021 trên toàn quốc đã thực hiện thực hiện được 11.910 vụ việc TGPL cho 11.910 lượt người được trợ giúp pháp lý là trẻ em chiếm 8,81% tổng số vụ việc trợ giúp pháp lý. Số vụ việc trợ giúp pháp lý bằng hình thức tham gia tố tụng tăng lên hàng năm, chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng số vụ việc TGPL cho nhóm đối tượng này (63,82 % vụ việc tham gia tố tụng). Qua hoạt động kiểm tra và báo cáo của địa phương cho thấy, hầu hết các vụ việc trợ giúp pháp lý được thực hiện đều đạt chất lượng hoặc chất lượng tốt. Trong đó, có nhiều vụ việc trợ giúp pháp lý cho trẻ em thành công, có hiệu quả như được bào chữa vô tội, được giảm hình phạt, được chuyển tội danh nhẹ hơn, được tăng mức bồi thường thiệt hại.... Các vụ việc tham gia tố tụng đều được các Trung tâm trợ giúp pháp lý tạo điều kiện phân công trợ giúp viên pháp lý, luật sư có nhiều kinh nghiệm thực tế, am hiểu tâm lý trẻ em để thực hiện trợ giúp pháp lý cho các em.
Thời gian gần đây, nhiều vụ việc nổi cộm được báo chí đưa tin, dư luận xã hội quan tâm mà nạn nhân là trẻ em đã được các Trung tâm trợ giúp pháp lý chủ động, kịp thời tiếp cận, xác minh để cử người thực hiện trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp kịp thời cho họ. Các vụ việc này đều được Cục Trợ giúp pháp lý theo dõi, chỉ đạo, trao đổi với địa phương, ví dụ như vụ em gái 13 tuổi bị xâm hại tình dục ở Bắc Giang, bé 3 tuổi bị cắt gân tay ở Quảng Ngãi, bé gái bị cha dượng xâm hại tình dục suốt nhiều năm liền ở Kiên Giang… được một số báo điện tử nêu như: “vietnamnet”, “dantri.com.vn”,"tuoitre.vn”,“cand.com.vn","laodong.vn".v.v.
Bên cạnh việc tăng cường số lượng và chất lượng các vụ việc trợ giúp pháp lý cho trẻ em, Bộ Tư pháp (Cục Trợ giúp pháp lý) và các địa phương (Trung tâm trợ giúp pháp lý và các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý khác) còn chú trọng tới việc nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng trợ giúp pháp lý cho người thực hiện trợ giúp pháp lý. Nhiều lớp tập huấn về cập nhật văn bản mới, kỹ năng trợ giúp pháp lý thân thiện cho trẻ em và người dưới 18 tuổi, kỹ năng trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật, bị bạo lực gia đình, bị xâm hại (trong đó có trẻ em). Với những kết quả trên, có thể khẳng định công tác trợ giúp pháp lý đã góp phần không nhỏ trong việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội của Nhà nước đối với các đối tượng yếu thế trong đó có trẻ em; hoạt động trợ giúp pháp lý đã kịp thời bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em khi các em có vướng mắc về pháp luật, tạo niềm tin vào công lý của người dân với Đảng và Nhà nước.
5. Một số giải pháp phòng ngừa tình trạng trẻ em bị bạo lực, xâm hại
Thứ nhất, triển khai thực hiện nghiêm các quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật Trẻ em năm 2016, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Luật Trợ giúp pháp lý, Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật… và các văn bản hướng dẫn thực hiện; ưu tiên bố trí nguồn lực để bảo đảm việc hỗ trợ, can thiệp cho trẻ em khi bị bạo lực, xâm hại… Tăng cường giáo dục kiến thức, kỹ năng bảo vệ trẻ em, đặc biệt về phòng ngừa xâm hại tình dục và bạo lực đối với trẻ em cho cha mẹ, giáo viên, người chăm sóc trẻ, người trực tiếp làm việc với trẻ em và kiến thức, kỹ năng tự bảo vệ mình trước các nguy cơ bị xâm hại cho trẻ em.
Thứ hai, các bộ, ban, ngành, địa phương… cần nghiêm túc thực hiện Nghị quyết số 121/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội về việc tăng cường hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em; Quyết định số 1472/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 121/2020/QH14; Chỉ thị số 23/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường các giải pháp bảo đảm thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em. Thường xuyên kiểm tra, thanh tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện quy định của pháp luật về bảo vệ trẻ em. Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao rà soát hồ sơ, vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em để xử lý dứt điểm, không để tồn đọng, kéo dài; tiếp nhận, giải quyết kịp thời, xử lý nghiêm các vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em; kiên quyết xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân có hành vi bao che, chậm trễ, cố tình kéo dài hoặc không xử lý vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em.
Thứ ba, rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về bảo vệ trẻ em, phòng ngừa và đấu tranh với tội phạm bạo lực, xâm hại/xâm hại tình dục trẻ em. Trước hết là các quy định về giám định pháp y trong pháp luật về giám định tư pháp để bảo đảm các vụ việc bạo lực, xâm hại tình dục trẻ em được điều tra nhanh chóng, thu thập kịp thời, đầy đủ bằng chứng; tăng quyền yêu cầu giám định cho cha, mẹ, người giám hộ của trẻ em; có sự phối hợp giữa công tác xã hội hỗ trợ nạn nhân với thu thập, cung cấp chứng cứ xâm hại trẻ em cho quá trình tư pháp. Sửa đổi, bổ sung pháp luật về tố tụng hình sự để bảo đảm việc điều tra, xét xử vụ việc bạo lực, xâm hại, xâm hại tình dục trẻ em không có nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em là nạn nhân. Sửa đổi, bổ sung pháp luật xử lý vi phạm hành chính để tăng mức xử phạt hành chính hành vi bạo lực đối với trẻ em. Quy định chế tài xử lý việc phản ánh vụ việc bạo lực, xâm hại, xâm hại tình dục trẻ em trên các phương tiện thông tin đại chúng vi phạm quyền bí mật đời sống riêng tư của trẻ em.
Thứ tư, triển khai nhiều biện pháp, nhiều kênh truyền thông, giáo dục cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em và chính trẻ em kiến thức, kỹ năng phòng ngừa, thông báo, tố cáo và cùng giải quyết các vụ việc bạo lực, xâm hại, xâm hại tình dục trẻ em; cập nhật kiến thức, kỹ năng phòng, chống xâm hại trẻ em, đặc biệt phòng chống xâm hại tình dục trẻ em trên môi trường mạng. Ngoài ra, để bảo đảm an toàn cho các em trước nguy cơ dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp, các ngành, các đơn vị chức năng tại cơ sở, địa phương phải tham mưu với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai kịp thời các biện pháp bảo vệ trẻ em trong hoàn cảnh dịch bệnh, thường xuyên cập nhật số lượng, lập danh sách và nhu cầu của trẻ em ở các địa bàn giãn cách xã hội, các cơ sở cách ly tập trung và sử dụng ngân sách hoặc các nguồn vận động khác để hỗ trợ dinh dưỡng, đồ dùng thiết yếu, thuốc và các vật phẩm y tế bổ sung cho trẻ em với phương châm không để một trẻ em nào có nhu cầu, gặp khó khăn mà không được hỗ trợ kịp thời....
Thanh Trang
Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật
Các tin đã đưa ngày: